Lô hội (Aloe vera) có nguồn gốc từ Bắc Phi và ven biển Địa Trung Hải, đây là một trong những loại thảo dược phổ biến nhất trong tất cả các thảo dược dùng để chữa bệnh. Nếu có chậu Lô Hội đặt bên khung cửa sổ nhà bếp, thì những chiếc lá luôn tươi sẵn sàng để trở thành thuốc điều trị nhanh chóng và dễ dàng cho các trường hợp bỏng. Khi cắt lá Lô hội thấy bên trong có gel nhầy màu trong, chất này có hiệu quả rõ rệt trong việc xoa dịu vết thương và vết bỏng, làm lành nhanh chóng, và giảm nguy cơ nhiễm trùng. Chất đắng màu vàng là nhựa chảy ra từ vỏ ngoài của lá Lô hội, không được nhầm lẫn với gel kết tinh đã được sấy khô.
Từ thời Ai Cập cổ đại, Lô hội đã được biết đến như là loại cây tượng trưng cho sự bất tử. Truyền thuyết kể rằng nữ hoàng Cleopatra mát xa gel Lô hội vào da của mình và đó là một phần của thói quen làm đẹp hàng ngày của bà. Nhà triết học người Hy Lạp Aristotle đã kêu gọi các học trò của ông trong đó có Alexander Đại Đế chinh phục các hòn đảo ngoài khơi vùng Đông Phi để có đủ Lô hội làm dược liệu trị thương cho quân đội của ông.
Vào thế kỷ X, Lô hội được du nhập vào châu Âu và trở thành loại thảo dược chữa bệnh phổ biến. Chất gel Lô hội được sử dụng bên ngoài để làm dịu và chữa lành vết thương và giúp cho làn da khỏe mạnh. Ngoài ra, các thầy thuốc thường dùng Lô hội chữa rối loạn tiêu hóa, táo bón, mất ngủ, bệnh trĩ, nhức đầu, bệnh nướu răng, và bệnh thận.
Ngày nay, Lô hội là loại thảo dược phổ biến nhất ở Mỹ. Lô hội được sử dụng bên ngoài để làm giảm nhẹ ngay lập tức các tổn thương do bỏng, cháy nắng, kích ứng da, vết xước và vết thương nhỏ. Nó rất hữu ích trong việc điều trị Herpes sinh dục và bệnh vẩy nến. Gel Lô hội chứa các hợp chất có hoạt tính giảm đau chống viêm và kích thích phục hồi làn da. Gel Lô hội đã chế biến được phổ biến rộng rãi, nhưng nhiều người cho rằng nó có hiệu quả nhất khi dùng trực tiếp khi cắt từ lá tươi. Nó là một thành phần phổ biến trong các sản phẩm chăm sóc da bán trên thị trường. Dùng bên trong, gel Lô hội và nước ép Lô hội được dùng để chữa các bệnh viêm xương khớp, viêm loét dạ dày, hội chứng ruột kích thích, và hen suyễn. Các chuyên gia nghiên cứu còn cho biết, nước ép Lô hội còn giúp giảm mức đường huyết và tăng tốc độ làm lành vết thương trên bệnh nhân đái tháo đường.
1. Đặc điểm thực vật
Lô hội là loài cây sống dai, có khi không có thân hoặc có thân khi lên cao hóa gỗ, chắc, to, ngắn và thô, Là mọng nước, tiết diện 3 cạnh, có gai 2 bên mép, trên bề mặt lá có thể có đốm trắng, không có cuống, đầu nhọn, kích thước lá đa dạng, thông thường lá Lô hội dài khoảng 20 – 30cm, rộng 3 – 5cm và dày 1 – 1,5cm, mọc thành chùm từ gốc. Cây ra hoa vào mùa thu, hoa có cán dài tới 1m, màu vàng đỏ, hợp thành chùm. Quả nang hình trứng, lúc non màu xanh, lúc già chuyển thành màu nâu, dai.
2. Trồng trọt và thu hoạch
Lô hội bao gồm khoảng 450 loài khác nhau, là loại thảo dược nhiệt đới ở miền bắc châu Phi và đảo Madagascar, cũng như miền bắc bán đảo Ả Rập và quần đảo Canary. Trong những loài Lô hội thì Aloe vera là loại phổ biến nhất. Lô hội có thể thay đổi kích thước và hình dáng khi trồng trong điều kiện khác nhau.
Lô hội thích hợp với đất sỏi, đất khô cằn, thoát nước tốt, nó thích đầy đủ ánh nắng mặt trời nhưng có thể chịu được bóng râm. Nó là một loài cây sống ở vùng khí hậu khô (như sa mạc), đòi hỏi ít nước. Các vùng trồng Lô hội quy mô lớn là ở phía nam Texas và Mexico, cung cấp nguồn nguyên liệu cho mỹ phẩm và thực phẩm cho các thị trường trên toàn thế giới.
Ở Việt Nam, Lô hội được trồng nhiều ở khu vực Phan Rang, Phan Thiết, Ninh Thuận… nhất là trên những vùng đất pha cát ven biển.
3. Thành phần hóa học
Phân tích thành phần của gel Lô hội, tìm thấy các chất sau:
- Acid amin (khoảng 23 loại).
- Vitamin nhóm B, Vitamin A, Vitamin C, Vitamin D.
- Các yếu tố vi lượng (Na, K, Ca, P, Cu, Fe, Zn, Mg, Mn, Cr).
- Các Monosaccharid, Polysaccharid chính các chất này có tác dụng kháng virus và giúp tăng cường hệ miễn dịch.
- Prostaglandin và các acid béo chưa bão hoà đặc biệt là Acid gama linolenic có tác dụng tiêu viêm, chống dị ứng và làm lành vết thương, mau lên da non vết thương, vết bỏng.
- Các Enzym giúp tiêu hoá tốt.
- Nhóm anthraglycoside Anthraquinon có tác dụng chống oxy hoá, nhuận tràng, giải độc tố. Aloe Emodin chiềm khoảng chiếm 0,05%-0,5% trong nhựa khô Lô hội. Barbaloin: Chiếm 15-30% thành phần nhựa của Lô hội. Các chất Aloinoside, Anthranol, aloin, Aloezin, Aloenin, Aloectin B... Chất nhựa ester của acid cinnamic, acid hysophanic.
4. Ứng dụng trong điều trị
- Chữa bỏng (thích hợp với bỏng độ 1 và độ 2).
- Bệnh vảy nến.
- Viêm đại tràng.
- Đái tháo đường.
Lô hội nổi tiếng với tác dụng làm dịu da bị cháy nắng nhưng lại ít được biết đến với loại thảo dược có khả năng chữa bệnh rộng rãi từ vết thương nhỏ ở da cho đến có thể hạ huyết trên bệnh nhân đái tháo đường. Những nghiên cứu gần đây cho thấy rằng gel Lô hội có tác dụng tốt trong việc giảm đường huyết ở những người bị bệnh đái tháo đường và giảm bớt các triệu chứng ở những người bị viêm loét đại tràng. Gel Lô hội có chứa Polysaccharide và Enzyme là những hợp chất có tác dụng làm dịu và giảm đau lớp niêm mạc, da bị tổn thương. Lô hội đã được sử dụng trong điều trị bỏng độ 1, độ 2 và bệnh vẩy nến, đôi khi cho thấy tác dụng tốt hơn so với phương pháp điều trị thông thường khác. Lô hội cũng có tính kháng khuẩn. Một nghiên cứu có 30 người bị bỏng độ 2, dùng kem Lô hội chứa 0,5% gel dạng bột, giúp làm lành vết bỏng nhanh hơn Sulfadiazine (loại kem kháng sinh thường được sử dụng). Ngoài ra, một nghiên cứu gồm 80 người bị bệnh vẩy nến và 70% sử dụng kem Lô hội có tác dụng như dùng kem Triamcinolone 0,1%, là loại thuốc thường được chỉ định cho bệnh nhân vẩy nến.
Thứ được gọi là nước ép Lô hội tạo ra từ gel Lô hội. Gel Lô hội tươi hoặc bột gel khô bột chỉ là một thành phần trong sản phẩm nước ép Lô hội. Nước ép Lô hội bán trên thị trường có chứa: Nước, axit Citric, nước trái cây, chất bảo quản và một số thành phần khác. Gel Lô hội còn trở thành nguyên liệu trong mỹ phẩm làm đẹp như: kem dưỡng da, sữa dưỡng da, sữa tắm.
Gel Lô hội được áp dụng dùng vài lần trong ngày đối với da bỏng và các vấn đề khác về da. Đối với bệnh viêm đại tràng, dùng 25 – 30 ml (khoảng 2 muỗng café) chia 2 lần/ngày. Đối với bệnh đái tháo đường, dùng 10 – 20 ml (khoảng 1 muỗng café) mỗi ngày.
• Lưu ý
Thông thường khi dùng bên ngoài, Lô hội làm đẹp da an toàn. Tuy nhiên, Lô hội có thể làm chậm lành những vết thương sâu, vết thương hở. Gel Lô hội có chứa Anthraquinone và có tác dụng nhẹ trên đường tiêu hóa, chiết xuất lá có thể từ tất cả các bộ phận của lá, bao gồm cả gel và mủ. Điều quan trọng là khi mua gel lô hội cần phải chắc chắn được nó được lấy từ bên trong lá và có chứa chất Aloin. Nước ép Lô hội có chứa Aloin có hoạt động như một thuốc nhuận tràng và có thể gây kích ứng ruột. Nếu dùng lâu dài có thể gây tiêu chảy dẫn đến rối loạn nước và điện giải. Những người có triệu chứng rối loạn tiêu hóa cấp tính không nên dùng nước ép Lô hội. Trẻ em và phụ nữ có thai không nên sử dụng nhiều Lô hội bằng đường uống.
Bác sĩ: Nguyễn Thùy Ngân (phòng khám Thọ Xuân Đường)