Thực hiện chức năng là một trong những viện đầu ngành về y học cổ truyền, Viện Y học cổ truyền Quân đội đã rất chú trọng công tác thừa kế, nghiên cứu khoa học, góp phần làm phong phú kho tàng tri thức về y dược học cổ truyền.
I. Những thành tựu của công tác thừa kế và nghiên cứu khoa học
Trong những năm qua, Viện Y học cổ truyền Quân đội đã thừa kế nhiều bài thuốc, kinh nghiệm, kỹ thuật điều trị của các thầy thuốc, chuyên gia đầu ngành giàu kinh nghiệm trong và ngoài quân đội; đã cử nhiều đoàn cán bộ tới các địa phương để tìm hiểu, thừa kế những kinh nghiệm điều trị, bài thuốc của các dân tộc.
Bằng những phương pháp khách quan, phương tiện hiện đại, Viện đã nghiên cứu chứng minh những giá trị thực tiễn và khoa học của những kinh nghiệm điều trị và những bài thuốc đã được thừa kế, nhằm nâng cao hiệu quả chăm sóc sức khoẻ bộ đội và nhân dân.
Công tác thừa kế và nghiên cứu thừa kế của đơn vị đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ, tập trung vào các mặt bệnh như: đột quỵ, trĩ, rò hậu môn, viêm tắc động mạch chi, gút Đây là những nghiên cứu thuộc các đề tài cấp Bộ, cấp Nhà nước và hợp tác với nước ngoài; và hiện đang là mũi nhọn của Viện.
Bên cạnh đó, Viện cũng đã thừa kế và nghiên cứu điều trị có hiệu quả trên 50 mặt bệnh thuộc các chuyên khoa như: tim mạch, hô hấp, tiêu hoá, tiết niệu, ngũ quan, xương khớp, da liễu, chuyển hoá, thần kinh, nam khoa, phụ khoa… Nhiều nghiên cứu hướng về cơ sở nhằm nâng cao sức khoẻ cho bộ đội tại các đơn vị trong thời bình cũng nhươ thời chiến; và nhiều nghiên cứu hướng tới phục vụ cộng đồng.
II. định hướng công tác thừa kế và nghiên cứu khoa học
2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Công tác thừa kế
Thừa kế là sự nối tiếp sự nghiệp của người trước. Chính khái niệm y dược học cổ truyền đã phản ánh đầy đủ ý nghĩa thừa kế, trong cả nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn.
Trong quá trình phát triển, thừa kế là mối liên hệ tất yếu khách quan giữa cũ và mới. Đây là một trong những nét cơ bản nhất trong quy luật đi lên của tự nhiên, xã hội và tư duy. Nó tiếp thu và duy trì những truyền thống của thế hệ trước.
Trong các hình thức vận động tiến lên của vật chất và ý thức thì mỗi hình thức vận động cao đều có mối liên hệ kế thừa những hình thức vận động thấp, bảo tồn và phát triển hơn nữa cái tiến bộ, hợp lý đã đạt được trong những giai đoạn trước; nếu không có điều đó thì không thể có sự vận động tiến lên trong tồn tại cũng như trong tư duy.
Bởi vậy, việc nhận thức đúng đắn quá trình thừa kế có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, giúp chúng ta có thể phân tích những quy luật phát triển, nhằm bảo tồn các di sản văn hoá của dân tộc và phát huy những thành tựu của quá khứ.
Nếu như trong sinh vật có tính di truyền, thì trong xã hội loài người có tính thừa kế, các thế hệ sau tiếp thu và duy trì những giá trị tích cực từ những thế hệ trước, đồng thời bổ sung những giá trị mới phù hợp.
Điều này đã giải thích rằng, sở dĩ nền y dược học cổ truyền phương Đông đã phát triển và đạt được nhiều thành tựu to lớn như ngày nay chính là sự phát triển liên tục từ những cái đã có; chọn lọc, giữ lại những mặt thích hợp, những mặt tích cực; và không ngừng bổ sung những mặt mới phù hợp với hiện thực.
Đây là một sự tích luỹ liên tiếp trong dòng chảy của thời gian, những nhân tố của quá khứ vẫn còn để lại dấu ấn ở hiện tại, tham gia vào việc tạo lập hiện tại, tạo nên sợi dây liên hệ sinh động được thể hiện dưới hình thức truyền thống.
2.1.2. Công tác nghiên cứu khoa học
Nghiên cứu khoa học là sự tìm kiếm những điều mà khoa học chưa biết, hoặc là sự phát hiện ra bản chất của sự vật, tạo ra tri thức mới giúp con người nhận thức thế giới; và sáng tạo ra những phương pháp, phương tiện kỹ thuật mới nhằm làm biến đổi sự vật, phục vụ mục tiêu hoạt động của con người. Mục đích của nghiên cứu khoa học là nhằm thoả mãn nhu cầu nhận thức thế giới và cải biến thế giới.
Hiện nay, không còn một công trình nghiên cứu khoa học nào được bắt đầu từ chỗ hoàn toàn trống không về kiến thức. Mỗi nghiên cứu đều phải kế thừa các kết quả nghiên cứu trong các lĩnh vực khoa học khác nhau và có sự thâm nhập về lý luận và phương pháp luận từ các lĩnh vực khoa học đó.
Trong nghiên cứu khoa học, có 3 loại hình chính là: nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng và triển khai, nằm trong hoạt động Nghiên cứu và Triển khai (Research and Development - R&D):
- Nghiên cứu cơ bản là những nghiên cứu nhằm phát hiện thuộc tính, cấu trúc, động thái của sự vật; sự tương tác bên trong sự vật; và mối liên hệ giữa sự vật này với sự vật khác. Sản phẩm của nghiên cứu cơ bản có thể là khám phá, phát hiện, phát minh dẫn đến việc hình thành một hệ thống lý thuyết có giá trị tổng quát, ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực khoa học.
Nghiên cứu cơ bản được phân ra làm 2 loại: Nghiên cứu cơ bản thuần tuý - là những nghiên cứu về bản chất của sự vật giúp nâng cao nhận thức, chưa bàn đến ý nghĩa ứng dụng; và nghiên cứu cơ bản định hướng - những nghiên cứu cơ bản đã dự kiến trước mục đích ứng dụng như các hoạt động điều tra cơ bản tài nguyên, kinh tế, xã hội; hay là nghiên cứu về một hiện tượng đặc biệt của sự vật như gen di truyền… Nghiên cứu cứu này vừa dẫn đến việc hình thành những cơ sở lý thuyết, vừa dẫn đến những ứng dụng có ý nghĩa thực tiễn.
- Nghiên cứu ứng dụng là sự vận dụng các quy luật được phát hiện từ nghiên cứu cơ bản để giải thích một sự vật, tạo ra những nguyên lý mới về các giải pháp và áp dụng chúng vào sản xuất, đời sống. Giải pháp ở đây bao gồm giải pháp về công nghệ và giải pháp xã hội. Một số giải pháp công nghệ có thể trở thành sáng chế.
- Triển khai là sự vận dụng các lý thuyết để đưa ra các hình mẫu với những tham số khả thi về kỹ thuật. Hoạt động triển khai bao gồm 3 giai đoạn: tạo vật mẫu (tạo prototype) – là giai đoạn thực nghiệm nhằm tạo ra được sản phẩm, chưa quan tâm đến quy trình sản xuất và quy mô áp dụng; tạo công nghệ (làm pilot) – giai đoạn tìm kiếm và thử nghiệm công nghệ để sản xuất ra sản phẩm theo mẫu vừa thành công trong giai đoạn thứ nhất; và sản xuất thử loạt nhỏ (sản xuất série 0) – giai đoạn kiểm chứng độ tin cậy của công nghệ trên quy mô nhỏ, thường gọi là quy mô sản xuất bán đại trà hay quy mô bán công nghiệp.
Việc nắm vững phương pháp luận nghiên cứu khoa học có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với những người làm công tác quản lý, nghiên cứu, giảng dạy và điều trị trong lĩnh vực y dược học cổ truyền.
2.1.3. Phát triển y dược học cổ truyền
Phát triển là quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến ngày càng hoàn thiện hơn của sự vật. Phát triển mang nội hàm rộng, nó bao gồm cả sự thay đổi về lượng và về chất. Đây là một quá trình hoàn thiện về mọi mặt.
Để đảm bảo sự phát triển được liên tục thì cần đặc biệt chú trọng đến sự phát triển bền vững - đáp ứng lợi ích hiện tại và có tính đến lợi ích của thế hệ tương lai.
Nền y dược học cổ truyền phương Đông đã được các dân tộc trong khu vực tích luỹ thông qua quá trình lao động, đấu tranh để sinh tồn; và giao lưu, trao đổi với các dân tộc khác trên thế giới, trong suốt hàng nghìn năm lịch sử.
Y học là môn học nghiên cứu về sự sống con người, về sức khoẻ và bệnh tật, về phòng bệnh và chữa bệnh.
Y học cổ truyền là một hệ thống tri thức về y lý (cơ sở lý luận về y học) và y thuật (kỹ thuật phòng và chữa bệnh có dùng thuốc, không dùng thuốc, hoặc kết hợp), được khái quát từ thực tiễn, được thực tiễn kiểm nghiệm và được truyền tiếp qua các thế hệ của các dân tộc phương Đông.
Dược học là môn học nghiên cứu về thuốc. Dược học cổ truyền là một hệ thống tri thức về cây thuốc, con thuốc, khoáng vật làm thuốc và những phương pháp thu hái, bào chế những dược liệu đó, được khái quát từ thực tiễn, được thực tiễn kiểm nghiệm và truyền tiếp qua các thế hệ của các dân tộc phương Đông.
Những định nghĩa trên đã thể hiện được tính khoa học của nền y dược học cổ truyền - đó là, nó đã phản ánh tính chân thực của thế giới, đã được khái quát từ thực tiễn và được thực tiễn kiểm nghiệm.
Cụm từ y dược học cổ truyền đã có nội hàm chứa đựng trong nó ý nghĩa kế thừa và phát triển những giá trị của y học và dược học được tạo ra qua các thế hệ; bên cạnh đó, nó cũng thể hiện rất rõ ràng tính lịch sử.
Qua quá trình hoạt động thực tiễn, loài người đã tạo ra 2 nền y học: nền y học phương Tây (nền y học thực nghiệm, khoa học, kinh viện, cứng rắn) và nền y học phương Đông (nền y học phổ thông, dân tộc, cổ truyền, tự nhiên, mềm dịu). Tuy mỗi một nền y học đều có những điểm ưu việt riêng, nhưng cùng chia sẻ mục đích chung là bảo vệ sức khoẻ của cộng đồng.
Bởi vậy việc xích lại gần nhau, giao thoa với nhau giữa 2 nền y học để rút ra những tính ưu việt của nền y học này, bổ khuyết cho nền y học kia sẽ là xu thế tất yếu, nhằm phát triển nền y học chung của nhân loại cả về chiều rộng và chiều sâu.
Phát triển y dược học cổ truyền chính là sự kế thừa những thành quả đã đạt được về y học và dược học từ những thế hệ đi trước; không ngừng bổ sung những tri thức mới và phương tiện kỹ thuật mới về y - dược thông qua các hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ; và kế thừa những kết quả, lý luận, phương pháp luận của các lĩnh vực khoa học khác của nhân loại; làm cho nền y dược học cổ truyền ngày càng hoàn thiện hơn.
Công tác thừa kế và nghiên cứu khoa học đóng vai trò hết sức quan trọng trong phát triển y dược học cổ truyền. Để có thể đạt được những mục tiêu đặt ra, trước hết, vấn đề lý luận và phương pháp luận cần được làm rõ.
2.2. Định hướng công tác thừa kế và nghiên cứu khoa học nhằm phát triển y dược học cổ truyền trong giai đoạn mới
Ngày nay, khoa học đã trở thành một thiết chế xã hội – là hệ thống các quy tắc, chuẩn mực điều khiển hành vi của con người trong xã hội. Khoa học đã thâm nhập vào các lĩnh vực, trở thành một chuẩn mực, định ra những khuôn mẫu, là thước đo mọi hoạt động trong xã hội. Luận cứ khoa học trở thành một đòi hỏi trong mọi quyết định sản xuất, kinh doanh, tổ chức xã hội; hàm lượng khoa học trong sản phẩm trở thành một tiêu chuẩn phấn đấu, là phương tiện giành thế cạnh tranh trên thị trường.
Trong thời gian qua, công tác thừa kế và nghiên cứu khoa học của Viện Y học cổ truyền Quân đội tuy đã đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ, nhưng mới chỉ được thực hiện một cách đơn lẻ, rời rạc, ngẫu nhiên, tập trung vào một bài thuốc, một kinh nghiệm và một kỹ thuật cá thể để xử lý một giai đoạn bệnh hay một triệu chứng bệnh nhất định.
Bởi vậy, trong thời gian tới, Viện sẽ tập trung thừa kế những thành quả điều trị của cả Đông và Tây y, kết hợp với những phương pháp khoa học, ứng dụng điều trị cơ bản từng căn bệnh cụ thể.
Để đưa y dược học cổ truyền lên một tầm cao mới, cần thiết phải xây dựng một trung tâm khoa học nhằm phát triển năng lực R&D và đẩy mạnh Đổi mới (Innovation); là đầu mối hợp tác nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ, thúc đẩy thương mại hoá thành công những sản phẩm của nghiên cứu khoa học; là địa chỉ ứng dụng những thành tựu khoa học và công nghệ mới trong y học, nhằm tạo ra một không gian tri thức về kết hợp Đông – Tây y.
Trung tâm này sẽ thu hút và đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao, chuyên viên, kỹ thuật viên về kế hợp Đông – Tây y cho quân đội, tạo ra một cộng đồng ưu tú, học tập, nghiên cứu, lao động tạo ra những giá trị mới dựa trên cơ sở khoa học, phát huy tư duy sáng tạo của từng cá nhân, phù hợp với đặc điểm văn hoá dân tộc kết hợp tính chất thời đại.
Đây sẽ là một đơn vị khoa học nòng cốt; là nhân tố tích cực thúc đẩy quá trình lan toả công nghệ, kỹ thuật, tri thức kết hợp Đông – Tây y; có vai trò tương hỗ với các đơn vị còn lại; góp phần tạo ra thế mới cho y học quân sự; hỗ trợ nền y dược học cổ truyền hội nhập sâu, rộng vào nền y học của thế giới.
Bên cạnh đó, tiến hành quy hoạch và xây dựng các vùng nuôi – trồng dược liệu tiêu chuẩn; đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất dược phẩm của y dược học cổ truyền đạt tiêu chuẩn GMP và tổ chức các nhà thuốc đạt tiêu chuẩn GPP.
Tài liệu tham khảo
1. Bách khoa tri thức, Nxb Lao Động, 2007.
2. Từ điển Triết học, Nhà xuất bản Tiến bộ Mát-xcơ-va, 1986.
3. Vũ Cao Đàm, Phương pháp luận NCKH, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, 2005.
4. Trung ương ĐCSVN, Chỉ thị số 24-CT/TW của Ban Bí thư về phát triển nền Đông y Việt Nam và Hội Đông y Việt Nam trong tình hình mới, ngày 04/7/2008.
5. Surbir Chowdhury, Quản lý trong thế kỷ 21, Nxb Giao thông Vận tải, 2006.
6. UNESCO: Manual for Statistics on Scientific and Technological Acitivities, Paris, June 1984.