Thần châm là thế mạnh châm cứu của Nam Y. Môn phái này tôn trọng mọi sự phát hiện cổ và tân về huyệt mạch của châm cứu nguyên thủy, nhưng không lệ thuộc vào những cơ chế giải thích về huyệt mạch của châm cứu nguyên thủy, mà ứng dụng hai đặc tính sinh học cơ bản nhất của cơ thể là phản ứng tự vệ và không dung nạp dị vật để xây dựng nên trường phái châm cứu của mình. Thần châm có ứng dụng to lớn trong việc chữa các bệnh ung bướu theo cơ chế tập trung năng lượng nội sinh để loại bỏ dị vật ra khỏi cơ thể.
THẾ MẠNH CHÂM CỨU CỦA NAM Y
Nam y là văn hóa chữa bệnh của dân tộc Việt Nam, 54 dân tộc là 54 nền văn hóa chữa bệnh đầy bản sắc, trong đó Thần châm là thế mạnh châm cứu của Nam Y. Môn phái này tôn trọng mọi sự phát hiện cổ và tân về huyệt mạch của châm cứu nguyên thủy, nhưng không lệ thuộc vào những cơ chế giải thích về huyệt mạch của châm cứu nguyên thủy, mà ứng dụng hai đặc tính sinh học cơ bản nhất của cơ thể là phản ứng tự vệ và không dung nạp dị vật để xây dựng nên trường phái châm cứu của mình. Thần châm có ứng dụng to lớn trong việc chữa các bệnh ung bướu theo cơ chế tập trung năng lượng nội sinh để loại bỏ dị vật ra khỏi cơ thể.
I. Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển của châm cứu nói chung và Thần châm nói riêng
“Châm”: Là dùng kim châm vào huyệt thuộc hệ thống kinh lạc của cơ thể hoặc các huyệt ngoài kinh, a thị huyệt nhằm mục đích phòng và điều trị bệnh.
“Cứu”: Là phương pháp dùng nhiệt (trực tiếp hay gián tiếp) tác động lên huyệt vị nhằm mục đích phòng và chữa các bệnh hư hàn.
Hình thức châm cứu sơ khai của loài người bắt nguồn từ thời thượng cổ. Hoạt động chủ yếu thường ngày của họ là săn bắt mồi và chạy trốn kẻ thù. Khi hoạt động liên tục với cường độ cao sẽ làm cạn kiệt năng lượng dự trữ ở các bó cơ, khiến cơ bị đột ngột co rút (hiện tượng này còn gọi là chuột rút). Các bó cơ co lại, siết vào các sợi thần kinh gây cảm giác đau đớn. Lúc này, người thượng cổ đã biết lấy đá có mũi nhọn đâm mạnh để giảm bớt đau đớn. Đây chính là hình thức châm cứu đầu tiên của loài người, được đặt tên là “Thạch châm” (dùng đá để châm). Ngoài đá ra, người cổ xưa còn dùng các vật dụng sắc nhọn khác đâm vào chỗ đau để giải tỏa các trường hợp co cơ như gai, que tre, trúc nhọn (gọi là “Trúc châm”).
Trải qua hàng ngàn năm, từ những “chiếc kim” thô sơ kích thước lớn gây nhiễm trùng, tổn thương da cơ, đã được thay thế dần bằng “vi châm”. Các hình thức dùng vàng, bạc, đốt kim châm qua lửa, ngâm trong rượu để hạn chế tai biến nhiễm trùng do châm cứu. Trong Hoàng Đế Nội Kinh Linh Khu có ghi lại 9 loại kim với hình dáng, kích thước và cách dùng khác nhau đó là: Sàm châm, viên châm, đề châm, phi châm, viên lợi châm, hào châm, trường châm, đại châm. Y học ngày nay vẫn thường sử dụng 5 loại kim chính: Kim nhỏ (hào châm), kim dài (trường châm), kim ba cạnh (tam lăng châm), kim cài loa tai (nhĩ hoàn), kim mai hoa (mai hoa châm).
Qua quá trình từ nguyên thủy giải đau đớn bằng châm cứu sơ khai, cho đến khi hình thành hệ thống lý luận triết học phương Đông, các học thuyết về âm dương, ngũ hành, tạng phủ, kinh lạc ra đời, thì thì châm cứu đã trở thành một phương pháp chữa bệnh với hệ thống kinh lạc, huyệt vị (trên kinh và ngoài kinh) ngày càng được bổ sung và hoàn thiện.
Bản chất của châm cứu là gì?
Đặc tính tự nhiên của sinh vật sống là không dung nạp dị vật (nghĩa là cơ thể sẽ huy động hệ thống miễn dịch để đào thải dị vật). Châm cứu là đưa dị vật vào cơ thể nhằm tác động vào hệ thống miễn dịch tập hợp mọi nguồn năng lượng nội sinh để vô hiệu hóa sự xâm hại của dị vật. Nguồn năng lượng nội sinh để chữa bệnh bao gồm các cơ chế giảm đau,cơ chế miễn dịch dịch thể và miễn dịch tế bào, cơ chế sinh cơ và cơ chế đông máu. Châm cứu là tác nhân vật lý gây kích thích tại da và cơ. Tại nơi châm cứu sẽ tiết ra các chất trung gian hóa học như Histamin, Acetylcholin, Catecholamin… làm giãn mạch, tăng tính thấm thành mạch, tập trung bạch cầu và các yếu tố đông máu, tạo nên cung phản xạ mới dập tắt cung phản xạ bệnh lý.
Theo lý luận y học cổ truyền, sự mất cân bằng âm dương sẽ sinh ra bệnh, cơ chế của châm cứu là cân bằng lại âm dương. Biểu hiện bệnh lý của cơ thể biểu hiện ra hệ thống kinh lạc, tác nhân bên ngoài (lục tà) cũng qua kinh lạc mà vào trong tạng phủ, vì vậy thông qua các huyệt vị mà dùng châm cứu, xoa bóp bấm huyệt để thông kinh lạc, hoạt huyết hóa ứ để giảm đau, hay phù chính khu tà tùy vào pháp bổ tả sao cho hợp với chẩn đoán bát cương, tạng phủ.
Hiện nay, châm cứu chữa các bệnh thông thường vẫn phụ thuộc vào các huyệt trên kinh mạch với các phương pháp phối huyệt tại chỗ, toàn thân theo nguyên – lạc, du – mộ, khích huyệt, ngũ du huyệt, lục tổng huyệt, bát hội huyệt.
Trong Nam Y, ngoài dùng thuốc ra, châm cứu cũng là thế mạnh trong điều trị các bệnh thông thường và các bệnh ung bướu. Đó là trường phái châm cứu của Nam y được gọi là Thần châm. Thần châm vẫn tôn trọng kinh mạch và huyệt vị tân cổ như châm cứu thông thường nhưng không lệ thuộc vào những cơ chế giải thích theo huyệt, kinh mạch mà ứng dụng 2 đặc tính cơ bản của cơ thể sinh vật là không dung nạp dị vật và huy động năng lượng nội sinh để loại bỏ dị vật.
Điểm giống và khác nhau giữa thần châm và châm cứu thông thường:
Tiêu chí |
Thần châm |
Châm cứu thông thường |
Định nghĩa |
Là trường phái châm cứu của Nam Y dùng kim châm cứu để tạo năng lượng nội sinh chữa bệnh. |
Là dùng kim châm vào huyệt thuộc hệ thống kinh lạc của cơ thể hoặc các huyệt ngoài kinh, a thị huyệt nhằm mục đích phòng và điều trị bệnh.
|
Cơ chế ứng dụng |
Dựa vào lý luận cân bằng âm dương, thông qua hệ thống kinh lạc và huyệt vị. Dựa vào 2 đặc tính cơ bản của cơ thể sinh vật là không dung nạp dị vật và huy động năng lượng nội sinh để loại bỏ dị vật. |
Dựa vào lý luận cân bằng âm dương, thông qua hệ thống kinh lạc và huyệt vị. |
Loại kim thường dùng |
Loại kim giống như hào châm, cỡ nhỏ 0.1–0.3mm làm bằng hợp kim bạc. |
Dùng hào châm, trường châm, tam lăng châm với nhiều kích thước khác nhau. |
Số lượng huyệt thường châm |
Vô số huyệt tại chỗ, huyệt trên đường kinh và huyệt ngoài kinh. |
Vô số huyệt tại chỗ, huyệt trên đường kinh và huyệt ngoài kinh. |
Ứng dụng để chữa bệnh |
Bệnh ung bướu, xử trí cấp cứu và các bệnh thông thường. |
Các bệnh thông thường và một số xử trí cấp cứu. |
Thần châm là thế mạnh của Nam Y vì nó là sự kết tinh tinh hoa của đông, tây, kim, cổ, là sự kết hợp giữa cơ chế khoa học và lý luận y học cổ truyền. Thần châm còn có ứng dụng to lớn để chữa các bệnh ung bướu theo cơ chế tập trung năng lượng nội sinh để loại bỏ dị vật ra khỏi cơ thể. Cùng với Nam dược, Thần châm đã giúp cho nhiều bệnh nhân nói chung và bệnh nhân ung bướu nói riêng chiến thắng được bệnh tật.
II. Ứng dụng riêng biệt của Thần châm trong điều trị bệnh
Sau nhiều năm kinh nghiệm ứng dụng Thần châm trong điều trị bệnh, Nam y đã rút ra những ứng dụng quan trọng như sau:
1. Loại kim dùng trong Thần châm
Kim dùng trong Thần châm là loại kim nhỏ giống hào châm, có đường kính từ 0.1-0.3mm làm bằng hợp kim bạc, bền với các tác nhân vật lý và hóa học, không gãy, không han gỉ. Thần châm không dùng các loại kim to và quá dài để tránh sự tổn thương cơ, thần kinh vô ích và hạn chế được các tai biến khi châm.
2. Châm cứu kết hợp với dùng thuốc chữa bệnh
Khi châm cứu để huy động năng lượng nội sinh đến vùng bị bệnh để chữa bệnh nếu sử dụng châm cứu đơn độc lâu ngày sẽ có biểu hiện thiếu hụt năng lượng nhiều hay ít. Vì vậy, cần phải dùng thuốc kết hợp để nâng cao thể trạng, trợ lực để thời gian chữa bệnh được nhanh hơn, hiệu quả hơn. Cần có chế độ nghỉ ngơi và ăn uống hợp lý để cân bằng được lượng năng lượng đã mất do châm cứu.
3. Cấy chỉ
Cấy chỉ vào huyệt, là đưa dị vật vào cơ thể để huy động năng lượng chữa bệnh, nhưng sợi chỉ tự tiêu lại không bền với tác nhân vật lý hóa học, trở thành chướng ngại vật cần phải loại bỏ. Cơ thể sẽ mất đi năng lượng vô ích không có ý nghĩa. Do đó, Thần châm không dùng biện pháp cấy chỉ.
4. Thủy châm
Trong Thần châm không sử dụng thủy châm (tiêm thuốc vào huyệt) vì một số lý do sau: Mũi kim châm vào huyệt quá lớn sẽ phá vỡ tổ chức thần kinh, cơ nơi tiêm, sau khi rút kim thì lượng thuốc sẽ phân tán đi toàn than qua hệ thống mạch máu, nên không có ý nghĩa tập trung năng lượng nội sinh. Chưa kể các tai biến do thủy châm gây ra như shock phản vệ do dị ứng thuốc, nhiễm trùng, áp xe chỗ tiêm. Nếu điều trị cần tác dụng của thuốc có thể dùng qua đường tĩnh mạch hoặc tiêm bắp.
5. Thần châm có thể châm vô số huyệt
Hiện nay, hệ thống huyệt trên đường kinh và ngoài kinh có khoảng gần 1000 huyệt đã được đặt tên hoặc chưa đặt tên. Châm cứu thông thường còn dùng các huyệt trên loa tai (nhĩ châm), a thị huyệt, gõ kim mai hoa (mai hoa châm)… Tức là châm cứu thông thường từ cổ chí kim cũng dùng vô số huyệt để điều trị và phòng bệnh. Trong Thần châm, cũng có thể châm vô số huyệt như châm cứu thông thường nhưng người thực hiện thần châm cần phải nắm rõ kiến thức y học hiện đại về giải phẫu và sinh lý các vùng trên cơ thể để châm không phụ thuộc nhiều vào huyệt và hệ thống kinh lạc, tránh châm vào những yếu điểm gây tổn thương các cơ quan khác.
6. Bảo toàn năng lượng khi châm
Trước khi châm phải đánh giá tình trạng của bệnh nhân, không châm với mục đích tập trung năng lượng đơn thuần khi cơ thể suy yếu, thiếu hụt năng lượng. Khi bệnh nhân đói quá hay no quá, ốm yếu lâu ngày, vừa mới tắm gội, đi xa về mệt mỏi, mới uống rượu xong, suy tim… không nên châm ngay vì có thể xảy ra tai biến vựng châm. Vì vậy, thao tác cần thiết trước khi châm là phải kiểm tra dấu hiệu sinh tồn của bệnh nhân (đo nhịp tim, nhịp thở, huyết áp) để quyết định có nên châm hay không.
7. Thời gian lưu kim của Thần châm
Trong Thần châm, thời gian lưu kim là rất cần thiết, khoảng từ 45-60 phút. Đây là khoảng thời gian thích hợp nhất để huy động năng lượng nội sinh và sự chịu đựng một tư thế của bệnh nhân là vừa đủ. Nếu thời gian quá ngắn sẽ không đủ năng lượng cần tập trung, nếu quá dài sẽ phải huy động năng lượng lớn để bao kim lại, không còn ý nghĩa dùng năng lượng dư thừa.
8. Cách thức châm cứu
Không dùng Thần châm để huy động năng lượng nhiều lần trên cùng một vùng cơ thể. Không nhất thiết phải châm hằng ngày mà nên để cách ngày cho bệnh nhân có thời gian nghỉ ngơi, uống thuốc (đặc biệt là Kỳ Môn Y Pháp), ăn để bổ sung dinh dưỡng và năng lượng cho cơ thể.
9. Không dùng tia laser, tia tử ngoại, tia X
Những tia này có tính phá hủy mô, tế bào mà không mang ý nghĩa sử dụng nguồn năng lượng nội sinh tiềm ẩn để chữa bệnh. Quan điểm của Thần châm là không dùng tia laser, tia tử ngoại, tia X.
10. Xoa bóp, bấm huyệt, cứu ngải
Những biện pháp xoa bóp, bấm huyệt, cứu ngải đều có ý nghĩa huy động máu đến vùng cơ thể cần chữa bệnh như châm cứu. Tuy nhiên, chỉ có châm cứu mới có tác dụng huy động năng lượng nội sinh để loại bỏ dị vật của cơ thể.
11. Sử dụng máy điện châm
Để đạt được hiệu quả châm cứu, Thần châm cũng phối hợp kích thích bằng máy điện châm với tần số và cường độ thích hợp với từng bệnh nhân cụ thể.
III. Một số ứng dụng đặc biệt của Thần châm
1. Thu hút năng lượng để điều trị các bệnh lý về thần kinh
Ví dụ về bệnh động kinh
Đa phần các trường hợp động kinh đều không rõ nguyên nhân (động kinh nguyên phát), các trường hợp tìm được nguyên nhân (động kinh thứ phát) thường có liên quan đến tổn thương thực thể tại não.
Ứng dụng Thần châm để giải quyết tình trạng trên như sau: Dùng kim nhỏ để châm vào các huyệt Cảnh Trung, Đại Chùy, 2 kim cân nhau ở khe giữa hai vai chếch ra ngoài 15o, 4 kim cân nhau bên khe 2 đốt sống D1 – D2 đo ra khoảng 2.5 -3cm chếch ra ngoài 15o và lưu kim trong khoảng 45 phút.
Cách châm này có tác dụng tăng tuần hoàn cho não bộ, tập trung nguồn năng lượng nội sinh để sửa chữa và phục hồi các thương tổn thần kinh, cắt cơn động kinh hiệu quả.
Có thể phối hợp thêm với các huyệt khác vùng đầu để tăng hiệu quả điều trị như: Ấn Đường, Thái Dương, Tứ Thần Thông.
Không nên châm đơn thuần liên tục mà cần phối hợp với dùng thuốc để tăng hiệu quả chữa bệnh và bù lại năng lượng đã bị thiếu hụt.
2. Ứng dụng phản ứng tự vệ để điều năng lượng trong cấp cứu
Ví dụ trường hợp bệnh nhân lên cơn tăng huyết áp
Để bệnh nhân nằm bất động trên giường, dùng kim châm mạnh vào 2 đầu ngón chân cái và các ngón chân khác tiếp theo, lưu kim lại 3 đến 5 phút rồi rút mạnh kim ra để máu chảy tự nhiên mà không bịt lỗ kim. Huyết áp sẽ dần dần hạ và bệnh nhân thoát khỏi nguy cơ đột quỵ do tai biến mạch máu não, sau đó sẽ dùng thuốc để ổn định.
Ngoài ra, Thần châm còn một số ứng dụng khác chữa các bệnh phức tạp như:
- Tiêu khối u, hạch trong các bệnh ung bướu lành tính hay ác tính. Đây là ứng dụng quan trọng của Nam y chữa bệnh ung bướu kết hợp với Kỳ Môn Y Pháp.
- Giảm đau cho bệnh nhân ung thư, chống cơn đau quặn thận, giải thoát sỏi niệu quản đe dọa giãn đài bể thận.
- Chống rối loạn nhu động ruột dẫn đến lồng ruột, rối ruột.
- Chống cơn hen do có thắt phế quản.
- Chống cơn đau dạ dày cấp
- Chống cơn đau quặn gan do sỏi mật, giun chui ống mật.
- Chống đau khớp, sung khớp.
- Chống co thắt động mạch cổ sau đe dọa nhồi máu não hay rối loạn tiền đình.
- Chống các cơn đau do chèn ép rễ thần kinh do thoái hóa cột sống, thoát vị đĩa đệm.
- Chữa bệnh viêm họng lâu ngày điều trị kháng sinh nhiều đợt không đỡ.
- Chống viêm tắc mạch chi (động mạch và tĩnh mạch).
Nhờ có Thần châm kết hợp với các phương thuốc Nam Y nên chữa được nhiều bệnh mãn tính và các bệnh hiểm nghèo, hạn chế phải phẫu thuật trong nhiều trường hợp. Trên đây, bài viết đã phân tích rõ cơ chế tác dụng và ứng dụng riêng của Thần châm. Giải thích cặn kẽ tại sao Nam Y lại dùng Thần châm, không nên dùng những biện pháp không có tác dụng huy động năng lượng nội sinh để chữa bệnh và cần phải phối hợp điện châm, ăn uống, dùng thuốc hợp lý để tăng hiệu quả trị liệu.
• Ứng dụng của Thần châm vào chữa bệnh cụ thể:
1. Trường hợp bệnh nhân Phạm Đăng Long (Hai Bà Trưng – Hà Nội) điều trị u thùy phải tuyến giáp.
Đầu tháng 06/2014, bệnh nhân đến Thọ Xuân Đường điều trị u tuyến giáp với kết quả siêu âm: Khối u thùy phải tuyến giáp kích thước 30x35mm, khối sưng to nhìn thấy được bằng mắt thường, cảm giác nuốt vướng. Điều trị theo phác đồ Thần châm dùng kim nhỏ kích thước 0.2mm châm bao vây quanh tuyến giáp để để tập trung năng lượng nội sinh đến tuyến giáp nhằm loại bỏ dị vật (theo Nam y dù khối u lành tính hay ác tính đều là dị vật của cơ thể). Sử dụng máy điện châm để tăng hiệu quả trị liệu, kết hợp với thuốc sắc Kỳ Môn Y Pháp, thuốc viên, thuốc bôi bào chế từ Nam dược. Sau một tuần điều trị, khối u đã xẹp được gần một nửa và không còn đau. Sau một tháng, khối u xẹp hắn, mọi sinh hoạt trở về bình thường.
2. Trường hợp bệnh nhân Nguyễn Thị Xuân Thọ (Cầu Giấy – Hà Nội), điều trị u não đã phẫu thuật hai lần di chứng liệt VII trung ương và liệt nửa người phải.
Bệnh nhân Nguyễn Thị Xuân Thọ
Phác đồ Thần châm các huyệt vùng cổ gáy, sau tai và trên đầu nhằm tập trung nguồn năng lượng nội sinh để nuôi dưỡng và hồi phục các tế bào thần kinh. Châm cứu theo kinh lạc chữa liệt VII, các huyệt dương minh kinh (trị nuy độc cử dương minh) để chữa liệt nửa người phải. Sử dụng máy điện châm để tăng hiệu quả trị liệu, kết hợp với bài thuốc Kỳ Môn Y Pháp, thuốc viên bào chế từ Nam dược. Từ khi điều trị đến nay, tri giác của bệnh nhân tốt hơn rất nhiều, tình trạng miệng lệch, ăn uống rơi vãi đã được khắc phục. Bệnh nhân có thể tự đi lại, tay liệt vận động tốt, sắc mặt hồng hào, ăn ngủ đủ giấc.
3. Trường hợp bệnh nhân Đinh Hoàng Tùng (Ninh Bình) bị bệnh loạn dưỡng cơ Duchenne điều trị tại Thọ Xuân Đường
Bệnh nhân Đinh Hoàng Tùng
Trường hợp bệnh nhân Đinh Hoàng Tùng (Ninh Bình) bị bệnh loạn dưỡng cơ Duchenne điều trị tại Thọ Xuân Đường. Sử dụng phác đồ Thần châm vùng lưng và tứ chi, dùng máy điện châm để tăng hiệu quả trị liệu, kết hợp với xoa bóp, tập vận động, uống thuốc sắc, thuốc viên bào chế từ Nam dược. Từ việc hạn chế đi lại, khó khăn trong sinh hoạt, nay cháu đã đi lại tốt hơn, không còn bị ngã nhiều như trước. Men gan và men cơ đều giảm đáng kể theo thời gian điều trị.
Nhiều cháu sau một thời gian điều trị thì men cơ, men gan đã trở về bình thường và ổn định bệnh.
4. Trường hợp bệnh nhân Lê Khắc Chung (Quảng Ninh) điều trị tại Thọ Xuân Đường chữa ung thư thực quản
Bệnh nhân Lê Khắc Chung
Trường hợp bệnh nhân Lê Khắc Chung (Quảng Ninh) chữa ung thư thực quản bằng phác đồ Thần châm vùng ngực trước xương ức và vùng lung ngang mức. Cách châm này nhằm tập trung nguồn năng lượng nội sinh để loại bỏ khối u. Sử dụng máy điện châm tăng hiệu quả trị liệu, kết hợp thuốc sắc, thuốc viên bào chế từ Nam dược. Mặc dù mới chỉ điều trị được một tuần nhưng bệnh nhân đã thấy dễ nuốt, ăn được nhiều hơn trước. Nếu kiên trì điều trị theo phác đồ Thần châm từ 4 đến 6 tháng sẽ thấy hiệu quả tiến triển rõ nét.
Nhiều bệnh nhân có khối ung thư chèn ép, co thắt thực quản không ăn uống được trong 2 – 3 tuần, sau khi châm cứu một lần theo phác đồ Thần châm đã giảm co thắt, chèn ép thực quản, có thể uống ngay được sữa, ăn cháo lỏng và có cơ hội điều trị tiếp.
Từ các trường hợp bệnh khó chữa như ung thư, động kinh, nhược cơ ở người lớn… đến các trường hợp bệnh lý thần kinh, cơ xương khớp thông thường đều được trực tiếp điều trị bằng thần châm để có kết quả trị liệu rất tốt.
IV. Kết luận
Để sử dụng Thần châm có hiệu quả, người thầy thuốc cần phải có tri thức y học, nắm rõ cơ chế tác dụng, chỉ định và chống chỉ định trong châm cứu, giải phẫu sinh lý và bệnh học. Tuy trường phái Thần châm còn mới nhưng đã trải qua quá trình điều trị, tích lũy kinh nghiệm chữa khỏi nhiều bệnh và trở thành thế mạnh của Nam Y. Thần châm cần được bảo tồn và phát huy hơn nữa để ngày càng ứng dụng rộng rãi trong việc phòng và chữa bệnh.