Khoảng 300 triệu người trên thế giới bị rối loạn chức năng tuyến giáp. Các yếu tố môi trường đóng một vai trò quan trọng trong việc gây ra các bệnh tuyến giáp tự miễn ở những người dễ mắc bệnh. Di truyền đóng góp tới 70% nguy cơ. Để giảm thiểu rủi ro, chúng ta cần hiểu rõ mối liên quan của các tác nhân môi trường với rối loạn chức năng tuyến giáp. Những yếu tố này đặc biệt phù hợp với những người có nguy cơ cao hơn do tiền sử gia đình dương tính. Nghiên cứu lý tưởng để thấy tác động của chất độc tuyến giáp bao gồm việc đo trực tiếp mức độ tiếp xúc với chất độc ở một cá nhân có tình trạng tuyến giáp. Kiến thức về các yếu tố khác nhau ảnh hưởng đến rối loạn chức năng tuyến giáp có thể giúp diễn giải kết quả, nhằm làm nổi bật các chất độc khác nhau có thể ảnh hưởng đến chức năng tuyến giáp để có thể thực hiện các biện pháp thích hợp nhằm kiểm soát phơi nhiễm quá mức trong tương lai nhằm giảm tỷ lệ mắc các rối loạn tuyến giáp.
Tuyến giáp sản xuất ba loại hormone chuyển hóa quan trọng là thyroxine, triiodothyronine và calcitonin. Hormone kích thích tuyến giáp (TSH) do tuyến yên trước sản xuất sẽ kiểm soát việc sản xuất các hormone này. Iốt, có nguồn gốc chủ yếu từ hải sản hoặc được tiêu thụ dưới dạng muối iốt, được sử dụng để sản xuất hormon T3 và T4. Rối loạn tuyến giáp là bệnh phổ biến nhất trong số các rối loạn tuyến khác nhau của hệ thống nội tiết. Theo một báo cáo được công bố gần đây, khoảng 300 triệu người trên thế giới đang mắc phải vấn đề nội tiết này, trong đó có 42 triệu người là người Ấn Độ. Tỷ lệ mắc bệnh rối loạn tuyến giáp không khác nhau ở các nhóm tuổi, giới tính cũng như các khu vực khác nhau. Các rối loạn tuyến giáp thường gặp bao gồm suy giáp, cường giáp, bướu cổ và các rối loạn thiếu iốt khác, viêm tuyến giáp Hashimoto và ung thư tuyến giáp. Bệnh tuyến giáp không được điều trị có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng, đặc biệt là các bệnh về tim mạch. Vì vậy, việc nâng cao nhận thức của cộng đồng về rối loạn tuyến giáp và các yếu tố gây ra rối loạn tuyến giáp là điều quan trọng để đối phó với bệnh tuyến giáp.
Khuynh hướng di truyền được báo cáo trong khoảng 70-80% bệnh tuyến giáp tự miễn, 20-30% còn lại do các tác nhân môi trường gây ra dựa trên nghiên cứu trên động vật và con người. Vì vậy, kiến thức về các yếu tố môi trường gây ra bệnh tuyến giáp tự miễn có thể giúp giảm nguy cơ.
Yếu tố dinh dưỡng
Chế độ ăn uống quá nhiều iốt: Ở những người dễ bị tổn thương về mặt di truyền, việc tiêu thụ nhiều iốt có thể đóng vai trò là tác nhân gây viêm tuyến giáp. Thực phẩm chứa iốt tức là rong biển, tảo bẹ, muối i-ốt, chất phụ gia i-ốt cho bánh mì/bột, chất bảo quản, thuốc như amiodarone, vitamin, thuốc sát trùng tại chỗ Lugol's Iodine và thuốc nhuộm tương phản có thể đóng vai trò là điểm khởi đầu vì thyroglobulin có hàm lượng i-ốt cao được chứng minh là có khả năng miễn dịch cao hơn so với chất có i-ốt kém. Iốt cũng có thể gây độc trực tiếp lên tuyến giáp thông qua các gốc oxy tự do và kích thích miễn dịch.
Goitrogens xuất hiện tự nhiên: Chúng được tìm thấy trong các loại đậu, thực vật, amiodarone, lithium, ngoài ra còn có trong bắp cải, súp lơ, bông cải xanh, củ cải, các dạng sắn củ. Đậu nành hoặc thực phẩm giàu đậu nành cũng có thể làm trầm trọng thêm các vấn đề về tuyến giáp, làm giảm hấp thu T4 và cản trở hoạt động của hormone tuyến giáp và được báo cáo là làm tăng bệnh tuyến giáp tự miễn dịch.
Vai trò của chất béo trong chế độ ăn: Dinh dưỡng có thể ảnh hưởng đến trục tuyến giáp vùng dưới đồi-tuyến yên. Thành phần chất béo trong chế độ ăn ảnh hưởng đến sự bài tiết TSH, hoạt động peroxidase của tuyến giáp, hoạt động deiodinase của gan và liên kết T3 với các thụ thể hạt nhân. Trong một nghiên cứu được thực hiện trên chuột Wistar đực, được cho ăn theo chế độ ăn khác nhau về thành phần chất béo, nồng độ thyroxine toàn phần và tự do ở nhóm được cho ăn chất béo bão hòa cao hơn những nhóm khác. Hơn nữa, mức độ Tri-iodothyronine và peroxidase tuyến giáp đã được báo cáo là giảm ở những con chuột được nuôi bằng chất béo không bão hòa đa và tăng ở những con chuột được nuôi bằng chất béo không bão hòa đơn. Tuy nhiên, hoạt động của deiodinase ở gan giảm bất kể thành phần chất béo. Hoạt động TPO có thể được kích thích bằng cách tiêu thụ FA n-3 không bão hòa đa và FAn-9 không bão hòa đơn trong khi nó bị giảm bởi FAn-6 bão hòa và không bão hòa đa. Tác dụng kích thích của n-3 PUFA cũng đã được quan sát thấy đối với biểu hiện transthyretin trong não và tăng sinh tế bào tuyến giáp. Tuy nhiên, các kết quả khác cũng cho thấy sự liên quan của PUFA n-6 trong việc kích thích hoạt động của tuyến giáp. Chế độ ăn nhiều mỡ lợn có hàm lượng chất béo cao gây ra rối loạn chức năng tuyến giáp đáng kể và hình thái bất thường ở chuột mà không thể khắc phục bằng cách điều chỉnh chế độ ăn uống ngắn hạn. Mức chất béo trung tính tăng lên và mức T4 toàn phần và T4 tự do giảm cùng với mức TSH huyết thanh tăng lên đã được ghi nhận. Trong một nghiên cứu khác trên mô hình chuột, tác dụng của chất béo trong chế độ ăn bị oxy hóa nhiệt đã được ghi nhận. Nồng độ thyroxin trong huyết tương tăng lên cho thấy chất béo bị oxy hóa cũng có thể làm thay đổi hình thái và chức năng của tuyến giáp.
Vai trò của trà xanh: Chức năng tuyến giáp có thể bị suy giảm do chiết xuất trà xanh ở liều cao. Sự giảm đáng kể trong huyết thanh T3 và T4 và sự gia tăng nồng độ TSH đã được báo cáo cùng với hoạt động TPO và deiodinase giảm khi đáp ứng với chiết xuất trà xanh trong chế độ ăn ở chuột. Một nghiên cứu gần đây được thực hiện để thấy tác dụng của catechin, flavonoid trong trà xanh đối với sinh lý tuyến giáp ở mô hình chuột đã kết luận rằng hoạt động của peroxide tuyến giáp và enzyme 5'-deiodinase giảm. Đã ghi nhận mức T3 và T4 huyết thanh giảm cùng với mức TSH tăng đáng kể.
Đậu nành: Một trong những nghiên cứu đã báo cáo sự phát triển của bệnh bướu cổ và suy giáp ở trẻ sơ sinh 10 tháng tuổi được dùng sản phẩm đậu nành ngay từ khi mới sinh nhưng tình trạng này đã đảo ngược khi ngừng sử dụng sản phẩm đậu nành và giảm iốt của Lugol. Ngoài ra, tuyến giáp cho thấy sự hấp thu cao I131 sau khi ngừng sử dụng sản phẩm đậu nành. Các nghiên cứu trên người trưởng thành cho thấy sự ức chế đáng kể gắn trong huyết tương khi dùng sản phẩm đậu nành. Vì vậy, sản phẩm đậu nành dường như có chứa tác nhân gây bướu cổ ảnh hưởng đến chức năng tuyến giáp. Đánh giá của 14 thử nghiệm đã kết luận rằng mặc dù protein đậu nành và isoflavone không ảnh hưởng đến chức năng tuyến giáp bình thường ở những người có đủ lượng iốt nhưng chúng có thể cản trở sự hấp thu hormon tuyến giáp tổng hợp, làm tăng liều thuốc ở bệnh nhân suy giáp.
Thực phẩm thực vật tạo xyanua: Chiết xuất thô, luộc và nấu chín của nhiều loại thực phẩm thực vật tạo xyanua bao gồm súp lơ, bắp cải, mù tạt, củ cải, củ cải, măng và sắn đã được chứng minh là có hoạt tính chống TPO. Hơn nữa, chiết xuất đun sôi của các loại thực phẩm thực vật cyanogen này cho thấy hiệu lực kháng TPO cao nhất, tiếp theo là chiết xuất nấu chín và chiết xuất thô. Goitrin là một goitrogen hoạt động có trong thực vật của hạt Rutabaga, củ cải và hạt Brassicae. Tuy nhiên, nấu chín sẽ phá hủy enzyme chịu trách nhiệm kích hoạt progoitrin thành goitrin, do đó làm mất tác dụng chống tuyến giáp của nó. Thực phẩm gây bướu cổ nếu tiêu thụ với số lượng đáng kể có thể góp phần phát triển bướu cổ nhưng rất khó để coi chúng là yếu tố căn nguyên ở đại đa số bệnh nhân bướu cổ.
Vai trò của lạc: Ảnh hưởng của việc bổ sung lạc đến kích thước và hàm lượng iốt của tuyến giáp và sự hấp thu chất phóng xạ I131 cũng như sự bài tiết qua nước tiểu của nó đã được nghiên cứu ở chuột bạch tạng. Lạc (hoạt chất arachidon side) được báo cáo là gây bướu cổ, tuy nhiên tác dụng này bị ức chế bởi một lượng nhỏ iốt như kali iodua.
Vai trò của kê: Các nghiên cứu khác nhau trên chuột và lát thịt lợn tuyến giáp đã chỉ ra rằng chế độ ăn kê có chứa C-glycosylflavones (glycosyl vitexin, glycosylorientin và vitexin) tạo ra tác dụng tương tự như liều nhỏ thuốc chống tuyến giáp, methimazole. Tác dụng chống tuyến giáp tối đa và tăng đáng kể trọng lượng tuyến giáp cùng với sự ức chế tối đa hoạt động TPO được thấy ở phần cám kê có nồng độ tối đa C-glycosylflavones.
Thiếu selen và thiếu vitamin B12 cũng có liên quan đến viêm tuyến giáp tự miễn.
Nhân tố môi trường
- Các hợp chất clo hữu cơ được tìm thấy trong thuốc trừ sâu, gây ra các enzym ở gan dẫn đến giảm thời gian bán hủy của thyroxin trong huyết thanh (T4);
- Isoflavone: giảm hoạt động của thyroperoxidase;
- Biphenyl polychlorin hóa, polybrominated diphenyl ethers, bisphenol-A và triclosan có thể có tác động trực tiếp lên thụ thể hormone tuyến giáp;
- Perchlorate được tìm thấy trong nhiên liệu tên lửa, thiocyanate và nitrat cản trở sự hấp thu iốt. Một nghiên cứu được thực hiện trên phụ nữ mang thai sống ở khu công nghiệp ở nam California cho thấy mối liên quan chặt chẽ giữa tăng perchlorate trong nước tiểu và giảm mức thyroxine tổng và tự do cùng với mức TSH tăng;
- Mỹ phẩm: Bộ lọc tia cực tím nhằm bảo vệ da khỏi bức xạ tia cực tím cũng có thể làm thay đổi cân bằng nội môi tuyến giáp . Một nghiên cứu trên chuột được điều trị bằng Benzophenone-2 cho thấy mức T4 thấp và mức TSH cao bên cạnh hoạt động của Thyroid-peroxidase bị thay đổi . Một hóa chất OMC khác (Octyl-methoxycinnamate) gây giảm nồng độ T 3 và T 4 trong huyết thanh ở chuột;
- Kim loại nặng: Các kim loại nặng như cadmium và chì được biết là ảnh hưởng đến chức năng tuyến giáp. Trong một nghiên cứu trên bò trưởng thành, những con bò tiếp xúc với chì sống ở khu vực bị ô nhiễm có lượng chì trong máu và nồng độ T 3 , T 4 cao hơn đáng kể. Trong một nghiên cứu trên phụ nữ mang thai, những người đến từ thị trấn tiếp xúc với chì có thyroxine tự do (FT4) trung bình thấp hơn, kháng thể TPO trung bình cao hơn cùng với nồng độ chì cao hơn cho thấy sự kích thích tự miễn dịch khi tiếp xúc với chì kéo dài;
- Các nghiên cứu sử dụng chuột tiếp xúc với gen cũng cho thấy brom và lipopolysacarit vi khuẩn có thể gây ra bệnh viêm tuyến giáp tự miễn.
Trong Khảo sát kiểm tra sức khỏe và dinh dưỡng quốc gia lần thứ ba (NHANES III), mối quan hệ giữa hút thuốc và các bất thường về tuyến giáp đã được đánh giá. Người ta đã phát hiện ra rằng hút thuốc có liên quan nghịch với mức độ phổ biến của kháng thể tự động tuyến giáp trong huyết thanh. Số lượng người hút thuốc ít hơn được chứngminh là có kháng thể tự động tuyến giáp trong huyết thanh (11%) và TSH tăng cao (2,6%) so với những người không hút thuốc (18%) và (5,5%) tương ứng.
Vai trò của Tuổi tác: Bệnh tuyến giáp được báo cáo là phổ biến hơn ở phụ nữ tiền mãn kinh và mãn kinh do sự thay đổi cân bằng giữa estrogen và progesterone, Tuy nhiên, việc sử dụng genistein aglycone hàng ngày (một loại bướu cổ đã biết) cho phụ nữ sau mãn kinh trong khoảng thời gian 3 năm không làm thay đổi nồng độ T3 , T4 , TSH và hoạt động của enzym do đó chứng tỏ không có mối liên hệ giữa tuổi tác với các bệnh về tuyến giáp.
Khả năng gây bướu cổ của thực vật hoặc thực phẩm phụ thuộc vào lượng bướu cổ hoạt động có trong đó. Các quy trình khác nhau như ngâm, rửa, đun sôi và nấu chín có thể giúp giảm khả năng gây bướu cổ của những thực phẩm này. Những điều này, cùng với việc bổ sung iodide, thường được thực hiện ở những khu vực thường xuyên tiêu thụ thực phẩm gây bướu cổ. Các biện pháp này có hiệu quả đến mức nào trong việc giảm hoạt động chống tuyến giáp vẫn chưa rõ ràng. Bệnh nhân bị suy giáp có thể tránh ăn các loại rau họ cải sống như bắp cải, cải Brussels, bông cải xanh, súp lơ trắng, rau mù tạt, cải xoăn và củ cải. Ngoài ra, chế độ ăn uống hàng ngày nên bao gồm các thực phẩm tăng cường tuyến giáp như giàu iốt, axit amin tyrosine, khoáng chất như selen, kẽm, đồng, sắt, các loại vitamin khác nhau bao gồm B2, B3, B6, C và E. Lợi ích của việc bổ sung iốt vượt trội hơn nguy cơ tự miễn dịch của tuyến giáp, do đó cần đảm bảo đủ iốt toàn cầu. Lượng chất béo tiêu thụ và thành phần của nó chắc chắn ảnh hưởng đến hoạt động của tuyến giáp như đã được chứng minh từ nghiên cứu được trích dẫn ở trên nhưng cần có nhiều nghiên cứu hơn để xác nhận kết quả. Rất khó để chứng minh vai trò của các hóa chất môi trường trong việc làm tăng khả năng mắc bệnh tuyến giáp tự miễn mặc dù từ lâu người ta đã cho rằng chúng là nguyên nhân gây bệnh. Các nghiên cứu sâu hơn về chất độc môi trường có thể cung cấp cái nhìn sâu sắc về tác động của các tác nhân này.
BS. Phạm Thị Hồng Vân (Thọ Xuân Đường)