Đau đầu xoang là một phàn nàn phổ biến mà các bác sĩ tai mũi họng, bác sĩ thần kinh và bác sĩ đa khoa gặp phải. Tuy nhiên, một số nghiên cứu cho thấy rằng phần lớn các trường hợp đó có thể là do đau đầu nguyên phát (tức là đau nửa đầu và đau đầu do căng thẳng). Đánh giá nguyên nhân gây ra đau đầu xoang. Phần đầu tiên bao gồm các nghiên cứu cắt ngang phân tích tỷ lệ mắc các chẩn đoán tương ứng ở những đối tượng mắc đau đầu xoang. Phần lớn các ấn phẩm này chỉ ra rằng đau nửa đầu và đau đầu do căng thẳng là những nguyên nhân phổ biến nhất gây ra đau đầu xoang, mặc dù hầu hết các nghiên cứu này đều được tiến hành trong bối cảnh lâm sàng. Cho thấy đau đầu xoang không bị viêm xoang đáp ứng tốt với liệu pháp dược lý nhắm vào các cơn đau đầu nguyên phát. Quan sát này càng củng cố thêm nguyên nhân thần kinh của phần lớn các trường hợp đau đầu xoang.
Tổng quan
Nguyên nhân gây đau đầu và đau mặt xoang mũi thường được nghi ngờ trong các bác sĩ tai mũi họng, thần kinh hoặc thực hành chung. Tuy nhiên, việc đưa ra chẩn đoán đôi khi là thách thức ngay cả đối với các bác sĩ có kinh nghiệm. Sự hiểu lầm thường bắt đầu từ việc bệnh nhân nhận được chẩn đoán không chính xác hoặc cố gắng tự chẩn đoán. Trong những trường hợp này, 'đau đầu xoang' được nghi ngờ.
Cơ sở đằng sau giả định này nằm ở điểm tương đồng về mặt lâm sàng giữa đau đầu do nguyên nhân mũi và do nguyên nhân thần kinh: cả hai đều có thể gây đau ở vị trí ngay trên các xoang cạnh mũi và cả hai đều có thể kèm theo chảy nước mũi và nghẹt mũi. Đó là lý do tại sao trong nhiều trường hợp, đau đầu xoang cuối cùng lại trở thành một rối loạn thần kinh bị quy nhầm cho các bệnh về mũi và bệnh nhân thường phải đợi hàng thập kỷ để được điều trị đầy đủ. Những quan sát này được hỗ trợ bởi kết quả của một nghiên cứu dựa trên dân số, trong đó 36,5% bệnh nhân đáp ứng các tiêu chí của chứng đau nửa đầu đã được chẩn đoán mắc đau đầu xoang trước đó. Tỷ lệ đó thậm chí còn cao hơn (42%) trong một nghiên cứu tương tự được tiến hành gần hai thập kỷ trước đó.
Những kết quả đó đã được xác nhận bằng các quan sát lâm sàng: trong một phân tích hồi cứu của 130 bệnh nhân đau nửa đầu, 81,5% đã được chẩn đoán mắc đau đầu xoang trước đó. Do đó, theo một số tác giả, đau đầu xoang là chẩn đoán sai phổ biến nhất trong chứng đau nửa đầu.
Triệu chứng trên lâm sàng
Trong thập kỷ qua, khả năng của các bác sĩ lâm sàng trong việc giúp những người mắc chứng đau nửa đầu kiểm soát có ý nghĩa các cơn đau nửa đầu cấp tính đã tăng lên đáng kể do những tiến bộ đáng kể trong kiến thức về bệnh sinh lý của chứng đau nửa đầu; các phương pháp điều trị mới, hiệu quả hơn; và hiểu biết tốt hơn về cách kiểm soát chứng đau nửa đầu trong thực hành lâm sàng. Bất chấp những tiến bộ này, tỷ lệ dân số mắc chứng đau nửa đầu báo cáo đã được chẩn đoán mắc chứng đau nửa đầu chỉ tăng khiêm tốn trong giai đoạn 10 năm từ 1989 đến 1999 và ước tính một nửa trong số 28 triệu người mắc chứng đau nửa đầu ở Hoa Kỳ vẫn chưa được chẩn đoán. Sự thay đổi trong biểu hiện lâm sàng của nó có thể là một trong những yếu tố quan trọng nhất. Cụ thể, chứng đau nửa đầu có thể đi kèm với các triệu chứng thường liên quan đến các loại đau đầu khác, một yếu tố có thể gây nhầm lẫn trong các nỗ lực chẩn đoán. Đau đầu "xoang" có thể là một trong những biểu hiện lâm sàng thường bị nhầm lẫn nhất của chứng đau nửa đầu.
Đau đầu liên quan đến viêm xoang cấp tính có thể xảy ra nhưng được coi là tương đối hiếm. Bệnh nhân có biểu hiện này thường có các biểu hiện lâm sàng khác của viêm xoang như chảy dịch mũi có mủ và các phát hiện bệnh lý trên phim chụp X quang. Hiệp hội Đau đầu Quốc tế công nhận đau đầu xoang cấp tính nhưng tuyên bố rằng nó xảy ra kết hợp với viêm xoang cấp tính và bao gồm sốt và chảy dịch mủ như một phần của tiêu chuẩn chẩn đoán. Hiệp hội Đau đầu Quốc tế tuyên bố thêm rằng viêm xoang mãn tính không được xác nhận là nguyên nhân gây đau đầu hoặc đau mặt trừ khi nó tái phát thành giai đoạn cấp tính.
Các triệu chứng liên quan đến xoang như chảy nước mũi, nghẹt mũi và các triệu chứng về mắt thường có thể xảy ra ở chứng đau nửa đầu. Trong một nghiên cứu (n = 177), khoảng một nửa số bệnh nhân (46%) bị chứng đau nửa đầu, có hoặc không có hào quang đã gặp các triệu chứng ở một bên mũi và/hoặc mắt như chảy nước mắt, nghẹt mũi và chảy nước mũi kèm theo chứng đau đầu. Việc thiếu nhận thức rằng các triệu chứng về xoang và mũi có thể phổ biến ở chứng đau nửa đầu có thể giải thích cho phát hiện rằng những bệnh nhân bị chứng đau nửa đầu thường được chẩn đoán là bị đau đầu "xoang" nhưng không phải là đau nửa đầu. Trong Nghiên cứu về chứng đau nửa đầu của người Mỹ II dựa trên dân số Hoa Kỳ năm 1999, 40% số người được hỏi đáp ứng các tiêu chí về chứng đau nửa đầu, hoặc ước tính 11,1 triệu người Mỹ, đã báo cáo rằng bác sĩ chẩn đoán là bị đau đầu "xoang" có hoặc không có các loại đau đầu khác. Trong số những người đáp ứng các tiêu chí về chứng đau nửa đầu nhưng không được chẩn đoán là bị đau nửa đầu, 42% được chẩn đoán là bị đau đầu "xoang". Dữ liệu từ một nghiên cứu thí điểm nhỏ (n = 47) tại phòng khám mở rộng những phát hiện này bằng cách gợi ý rằng những bệnh nhân tự mô tả mình bị đau đầu "xoang" thường đáp ứng các tiêu chí về chứng đau nửa đầu nhưng không được chẩn đoán mắc chứng đau nửa đầu. Hầu như tất cả bệnh nhân (98%) tự mô tả mình bị đau đầu "xoang" đều đáp ứng các tiêu chí về chứng đau đầu kiểu đau nửa đầu (tức là đau nửa đầu có hoặc không có vầng hào quang hoặc rối loạn đau nửa đầu).
Nguyên nhân gây ra khiếu nại ở bệnh nhân bị 'đau đầu xoang'
Các nghiên cứu được đánh giá trình bày dữ liệu về bệnh nhân báo cáo để đánh giá y tế liên quan đến đau đầu, đã xác nhận rằng phần lớn đau đầu xoang không phải do rối loạn xoang mũi gây ra. Tuy nhiên, việc loại trừ những đối tượng có dấu hiệu viêm xoang mũi có thể dẫn đến việc đánh giá thấp tỷ lệ mắc đau đầu nguyên phát trong nhóm đau đầu xoang. Điều này có thể là kết quả của các dấu hiệu và triệu chứng về mũi ngẫu nhiên đi kèm với các rối loạn đau đầu nguyên phát. Rốt cuộc, cần nhớ rằng tình trạng nghẹt mũi hoặc chảy mũi, cũng như những thay đổi trên CT, có thể xảy ra ở những bệnh nhân không có rối loạn xoang mũi.
Bệnh nhân 'đau đầu xoang' từ các phòng khám tai mũi họng hoặc thần kinh ngoại, cho thấy rằng chứng đau đầu nguyên phát có thể là nguyên nhân gây ra các khiếu nại của nhiều bệnh nhân hơn trong một số nghiên cứu, đặc biệt là khi xem xét các triệu chứng tự chủ sọ não có thể xảy ra trong chứng đau nửa đầu. Trong một loạt bệnh nhân, những đối tượng có kết quả bình thường từ nội soi và CT được chẩn đoán mắc chứng đau nửa đầu ở 10% và đau đầu do căng thẳng thẳng hoặc đau giữa mặt ở 51%. Lý do cho tỷ lệ mắc chứng đau nửa đầu nhỏ như vậy vẫn chưa rõ ràng, mặc dù việc thiếu đánh giá của các chuyên gia về đau đầu có thể là đáng kể. Bệnh nhân bị đau nửa đầu trung bình có 14 ngày đau đầu mỗi tháng, một giá trị cao hơn nhiều so với nghiên cứu của Foroughipour et al. Không có dữ liệu về tỷ lệ mắc chứng đau nửa đầu mãn tính trong các nghiên cứu có trong bài đánh giá này, mặc dù có báo cáo rằng chứng đau nửa đầu mãn tính phổ biến hơn đáng kể ở những bệnh nhân đau nửa đầu đã được chẩn đoán mắc đau đầu xoang trước đó.
Dữ liệu về chứng đau đầu tự chủ dây thần kinh sinh ba như một vấn đề tiềm ẩn ở những bệnh nhân 'đau đầu xoang' còn hạn chế. Đánh giá của chúng tôi cho thấy dây thần kinh sinh ba có thể chịu trách nhiệm cho tới 11% các trường hợp đau đầu xoang. Các chuyên gia về đau đầu có thể cung cấp dữ liệu có giá trị, đặc biệt là vì các bác sĩ thần kinh báo cáo rằng trong 21–23% các trường hợp, đau đầu từng cơn ban đầu bị nhầm với viêm xoang, một lỗi thậm chí có thể được tìm thấy trong các báo cáo được công bố gần đây. Hơn nữa, 3–12% bệnh nhân đáp ứng các tiêu chí đau đầu từng cơn phải phẫu thuật xoang mũi không cần thiết. Tương tự như vậy, trong một nghiên cứu về chứng đau nửa đầu liên tục, 20% bệnh nhân lúc đầu được chẩn đoán nhầm là đau đầu xoang và 16% đã trải qua phẫu thuật xoang mũi.
Những bệnh nhân cuối cùng được chẩn đoán mắc chứng đau nửa đầu hoặc đau đầu căng thẳng có điểm số cao hơn đáng kể trong bài kiểm tra này, đặc biệt là trong các lĩnh vực dành riêng cho việc giảm chất lượng cuộc sống. Ngoài ra, lo lắng (65%) và trầm cảm (39%) có tỷ lệ mắc cao trong một nghiên cứu về các đối tượng đau đầu xoang.
Phương pháp điều trị 'Đau đầu xoang'
Phần này của bài đánh giá tập trung vào các nghiên cứu đánh giá việc điều trị bệnh nhân tự mô tả bị đau đầu xoang bằng thuốc có hiệu quả trong các rối loạn đau đầu nguyên phát. Đau đầu xoang không phải là chẩn đoán mà là một tập hợp các triệu chứng chủ yếu bị quy nhầm cho các rối loạn xoang mũi. Do đó, việc quản lý tình trạng này đòi hỏi phải giải quyết rối loạn tiềm ẩn. Về mặt lý thuyết, điều này có thể hỗ trợ độ chính xác của chẩn đoán. Xác định nguyên nhân gây bệnh dựa trên tác dụng của phương pháp điều trị. Tuy nhiên, cần phải có liệu pháp điều trị cụ thể cho từng bệnh để có thể chính xác. Nói cách khác, thuốc điều trị chứng đau nửa đầu sẽ không có hiệu quả đối với các bệnh xoang mũi. Trong khi đó, dữ liệu về tác dụng của các liệu pháp điều trị chứng đau nửa đầu (tức là triptan) trong viêm xoang mũi còn hạn chế. Tuy nhiên, có thể mong đợi một tác dụng tích cực, vì triptan là chất chủ vận thụ thể serotonin và do đó có thể làm giảm cơn đau do hoạt hóa phức hợp dây thần kinh sinh ba. Trong viêm xoang, sự hoạt hóa như vậy có mặt, do đó triptan có thể có hiệu quả. Đó là một trong những lý do tại sao các nghiên cứu được đưa vào phần này của bài đánh giá hầu như nhất trí loại trừ các đối tượng có bằng chứng về bệnh lý mũi.
Đau nửa đầu và đau đầu do căng thẳng là nguyên nhân phổ biến nhất gây ra các triệu chứng ở những bệnh nhân đến gặp bác sĩ để điều trị 'đau đầu xoang và đau mặt'. Thuốc có hiệu quả trong chứng đau nửa đầu và đau đầu do căng thẳng cũng làm giảm các triệu chứng 'đau đầu xoang'. Mặc dù phát hiện này không thể được coi là xác nhận chẩn đoán, nhưng nó hỗ trợ các quan sát rằng 'đau đầu xoang' chủ yếu là đau đầu nguyên phát được chẩn đoán sai. Đánh giá đa ngành đối với bệnh nhân bị 'đau đầu xoang' nên được thực hiện ngay từ giai đoạn đầu. Nên bao gồm một chuyên gia về đau đầu và bác sĩ chuyên khoa mũi, vì điều này sẽ cho phép phân loại chính xác loại đau đầu và tránh các thủ thuật phẫu thuật không cần thiết.
BS. Phạm Thị Hồng Vân (Thọ Xuân Đường)