Họng là một bộ phận rất quan trọng trong cơ thể con người, nằm ở vị trí trước cột sống cổ, kéo dài từ nền sọ tới đốt sống cổ thứ tư. Đây là nơi giao nhau của đường ăn và đường thở, nối thông với mũi ở phía trên, miệng ở phía trước, và tiếp giáp với thanh quản cùng thực quản ở phía dưới. Hình dạng của họng giống như một cái phễu với phần trên loe rộng và phần dưới hẹp dần. Cấu tạo của họng bao gồm lớp cân, cơ và lớp niêm mạc. Họng được chia làm ba phần chính: phần họng trên gọi là họng mũi (hay tỵ hầu), phần giữa là họng miệng (khẩu hầu) và phần dưới là họng thanh quản (thanh hầu). Bên trong họng còn có một hệ thống tổ chức lymphô tạo thành một vòng được gọi là vòng Waldeyer. Vòng này gồm các thành phần như amiđan khẩu cái, amiđan lưỡi, amiđan vòm (còn gọi là Luschka) và amiđan vòi (Gerlach). Mô học của amiđan tương tự như các hạch bạch huyết với chức năng sản sinh ra kháng thể nhằm bảo vệ cơ thể khỏi sự xâm nhập của vi khuẩn và vi rút. Bao quanh họng còn có những khoang chứa các cấu trúc quan trọng như cơ, cân, mạch máu, thần kinh và các hạch bạch huyết. Các khoang này có liên quan mật thiết với họng, điển hình như khoang bên họng (Sébileau) và khoang sau họng (Henké). Họng được nuôi dưỡng bởi các nhánh của động mạch cảnh ngoài, bao gồm động mạch hầu lên, động mạch giáp trạng trên và động mạch khẩu cái lên. Về thần kinh, cảm giác của họng chủ yếu do dây thần kinh IX (thiệt hầu) và dây X (lang thang) chi phối. Dây IX đảm nhiệm cảm giác ở nền lưỡi và phần dưới của amiđan, trong khi dây X chi phối cảm giác ở thành sau họng và màn hầu. Vận động của họng chủ yếu do các nhánh của dây IX và dây XI. Hệ thống bạch huyết của họng dẫn lưu về các hạch như hạch Gillete, hạch dưới cơ nhị thân và hạch dọc theo tĩnh mạch cảnh. Họng là một ngã tư giữa đường ăn và đường thở, do đó đảm nhiệm nhiều chức năng quan trọng bao gồm nuốt, thở, phát âm, nghe, cảm nhận vị giác và bảo vệ cơ thể. Khi niêm mạc họng bị viêm, sẽ xuất hiện tình trạng viêm họng. Trong đó, viêm họng cấp tính là một bệnh lý rất phổ biến, có thể xuất hiện độc lập hoặc đi kèm với các bệnh lý khác như viêm VA, viêm amiđan, các bệnh phát ban, cúm, sởi, bạch hầu, ho gà hoặc do các bệnh lý huyết học.
Viêm họng cấp tính được định nghĩa là tình trạng viêm cấp tính của lớp niêm mạc họng, vốn gồm các lớp liên bào, tuyến nhầy và nang lymphô. Theo phân loại của Escat, viêm họng cấp được chia thành ba nhóm: viêm họng không đặc hiệu (như viêm họng đỏ, viêm họng trắng, viêm quanh amiđan), viêm họng đặc hiệu (gặp trong bạch hầu hoặc viêm họng do Vincent) và viêm họng trong các bệnh lý về máu. Viêm họng đỏ là dạng thường gặp nhất, nhất là vào mùa lạnh hoặc khi thời tiết thay đổi đột ngột. Bệnh có thể do virus như virus cúm, sởi, hoặc do vi khuẩn như phế cầu, liên cầu hay các loại vi khuẩn thường trú ở họng. Triệu chứng thường xuất hiện đột ngột với sốt cao, ớn lạnh, đau mình, mệt mỏi, chán ăn, mất ngủ. Người bệnh cảm thấy họng khô rát, đau tăng khi nuốt, ho hoặc nói, thậm chí đau lan lên tai. Ngoài ra còn có triệu chứng ngạt mũi, chảy nước mũi, khàn tiếng nhẹ và ho khan. Khi khám họng, thấy niêm mạc đỏ rực, màn hầu, trụ trước, trụ sau và thành sau họng phù nề. Hai amiđan có thể viêm to, bề mặt có chất nhầy trong hoặc có bựa trắng như nước cháo. Hạch cổ hoặc hạch dưới hàm sưng và đau. Tuy nhiên, xét nghiệm máu cho thấy số lượng bạch cầu không tăng. Một số thể viêm họng đỏ cần chú ý là viêm họng do cúm với biểu hiện thành dịch, triệu chứng nặng kèm đau đầu và xuất huyết họng; viêm họng do virus APC ở trẻ em kèm theo viêm kết mạc và hạch cổ sưng; hoặc viêm họng do vi khuẩn gây sốt cao, co giật, nôn mửa. Chẩn đoán viêm họng đỏ dựa vào triệu chứng lâm sàng và kết quả xét nghiệm máu. Việc điều trị bao gồm nghỉ ngơi, giữ ấm, sử dụng thuốc hạ sốt như paracetamol, súc họng bằng dung dịch kiềm, nhỏ mũi bằng argyron và sử dụng kháng sinh nếu có biến chứng. Để phòng bệnh, cần tránh dùng chung đồ dùng với người bệnh, sử dụng tinh dầu, tỏi pha loãng để sát khuẩn và cắt amiđan khi viêm tái phát nhiều lần. Nếu sức đề kháng tốt, bệnh sẽ khỏi trong khoảng 3-4 ngày. Tuy nhiên, nếu có bội nhiễm, bệnh có thể dẫn đến viêm tai, viêm mũi, viêm phế quản hoặc viêm phổi.
Viêm họng có bựa trắng, còn gọi là viêm họng do liên cầu khuẩn, là một dạng viêm nặng, thường gây biến chứng như thấp tim, viêm khớp, viêm thận nếu không điều trị đúng cách. Bệnh thường do liên cầu khuẩn tan huyết nhóm A lây qua nước bọt. Triệu chứng toàn thân rất rầm rộ, sốt cao, rét run, mệt mỏi, nhức đầu. Người bệnh đau họng dữ dội, đau khi nuốt, đôi khi lan lên tai. Khám thấy hai amiđan sưng to, đỏ thẫm, các khe giãn rộng, có lớp bựa trắng phủ như kem, sau chuyển vàng xám. Bựa này khu trú ở amiđan và có thể lau sạch bằng bông mà không gây chảy máu. Các hạch vùng sau góc hàm sưng đau, thành sau họng có thể có vài đảo lympho bị viêm với lớp bựa trắng. Xét nghiệm cho thấy bạch cầu tăng cao, tốc độ máu lắng tăng, đôi khi có albumin trong nước tiểu. Chẩn đoán xác định dựa trên triệu chứng và xét nghiệm tìm liên cầu khuẩn. Cần phân biệt với bệnh bạch hầu và tăng bạch cầu đơn nhân, vì các bệnh này cũng có giả mạc trắng nhưng đặc điểm khác biệt rõ ràng. Điều trị viêm họng trắng bao gồm dùng kháng sinh như cephalothin, amikacin, gentamicin, kết hợp với thuốc giảm đau, hạ sốt và nghỉ ngơi. Tại chỗ có thể bôi họng, khí dung. Nếu bệnh tái phát nhiều lần và có albumin niệu, cần xem xét cắt amiđan. Bệnh thường kéo dài khoảng 10 ngày, nếu không được điều trị tốt có thể gây ra các biến chứng như viêm thận, thấp tim, viêm quanh amiđan, viêm tai, viêm xoang, viêm phế quản hoặc nhiễm trùng huyết. Viêm họng mạn tính là tình trạng viêm lan tỏa kéo dài, thường đi kèm viêm mũi, xoang, thanh quản hoặc khí phế quản mạn tính. Có ba thể chính: viêm họng xuất tiết, quá phát và teo. Bệnh có thể khu trú hoặc lan rộng. Nguyên nhân chủ yếu là do thở bằng miệng kéo dài vì ngạt mũi, do viêm xoang, khói thuốc, rượu, bụi, sợi bông, hóa chất hoặc yếu tố cơ địa như dị ứng, tiểu đường, suy gan.
Người bệnh thường có cảm giác khô, rát, ngứa họng vào buổi sáng, phải khạc đờm, đằng hắng. Đờm đặc, dính, có thể gây ho, nghẹn khi nuốt và khàn tiếng thoáng qua. Tùy từng thể bệnh, khám họng có thể thấy niêm mạc đỏ, có dịch nhầy trong dính, hoặc niêm mạc dày đỏ, các nang lympho phát triển tạo thành viêm họng hạt, thậm chí teo và trở nên nhẵn, mỏng, trắng bệch. Dịch nhầy khô lại thành vảy dính gây khó chịu. Nếu không điều trị, bệnh sẽ diễn tiến qua các giai đoạn từ xuất tiết đến quá phát rồi teo, gây ảnh hưởng lâu dài như viêm thanh quản, viêm phế quản mạn và suy nhược cơ thể. Điều trị viêm họng mạn tính cần giải quyết nguyên nhân như viêm mũi, xoang, viêm amiđan và loại bỏ các yếu tố kích thích. Giai đoạn xuất tiết nên súc họng bằng dung dịch kiềm, bôi glycerin borat, khí dung với hydrocortison. Giai đoạn quá phát có thể điều trị bằng đốt điện, nitơ lạnh hoặc laser. Giai đoạn teo thì bôi glycerin iod hoặc thuốc mỡ thuỷ ngân. Phòng bệnh bằng cách đeo khẩu trang khi làm việc trong môi trường nhiều bụi, súc họng hàng ngày, bổ sung vitamin và nâng cao thể trạng. Viêm amiđan mạn tính là tình trạng viêm lặp đi lặp lại của amiđan, có thể gây quá phát ở trẻ em hoặc xơ teo ở người lớn. Nguyên nhân chính là do nhiễm khuẩn như tụ cầu, liên cầu, xoắn khuẩn. Yếu tố thuận lợi là thời tiết lạnh, ô nhiễm môi trường, sức đề kháng kém, và các ổ viêm lân cận như viêm xoang, sâu răng, viêm lợi. Người bệnh có cảm giác nuốt vướng, đau họng, hơi thở hôi, thỉnh thoảng ho, khàn tiếng, thở khò khè khi ngủ. Khám thấy bề mặt amiđan có nhiều khe, hốc chứa chất bã đậu hoặc mủ màu trắng. Việc điều trị cần thiết và phù hợp sẽ giúp cải thiện tình trạng viêm họng và viêm amiđan, ngăn ngừa các biến chứng nguy hiểm cho sức khỏe người bệnh.
Theo y học cổ truyền, viêm họng được phân loại thành nhiều thể bệnh khác nhau, dựa vào nguyên nhân gây bệnh và biểu hiện lâm sàng cụ thể, từ đó có hướng điều trị phù hợp bằng các bài thuốc Đông y. Một trong những thể thường gặp là viêm họng do phong nhiệt. Người bệnh thường sốt, đau đầu, khô miệng, khát nước, họng đỏ rát và sưng đau. Lưỡi có rêu vàng mỏng, mạch phù sác. Đây là thể bệnh do ngoại tà phong nhiệt xâm nhập vào phế, khiến phế khí bị mất điều hòa, gây nên viêm họng. Trong trường hợp này, y học cổ truyền thường dùng các bài thuốc có tác dụng tân lương giải biểu, thanh nhiệt, tuyên phế như bài Ngân kiều tán gia giảm. Các vị thuốc như kim ngân hoa, liên kiều, bạc hà, cát cánh, cam thảo, trúc diệp, cúc hoa, thăng ma, cát căn được phối hợp để giải độc, thanh nhiệt và giảm đau họng. Thể thứ hai là viêm họng do phế vị nhiệt thịnh. Người bệnh cảm thấy đau rát họng, miệng khô, môi khô nẻ, ho khan, ít đờm, khạc ra đờm đặc và vàng, có thể có sốt nhẹ, táo bón, nước tiểu vàng sậm. Lưỡi đỏ, rêu vàng mỏng, mạch sác. Đây là tình trạng do nhiệt tích ở phế và vị, gây ảnh hưởng lên vùng họng. Bài thuốc được sử dụng phổ biến là Lương cách tán gia giảm, với các vị đại hoàng, chi tử, liên kiều, bạc hà, hoàng cầm, cam thảo, mang tiêu, huyền sâm, sinh địa. Những vị thuốc này có tác dụng tả hỏa, thanh phế, lương huyết, giải độc, giúp làm dịu họng và tiêu viêm hiệu quả.
Ngoài ra, viêm họng thể âm hư hỏa vượng cũng khá thường gặp, nhất là ở những người bệnh mạn tính hoặc cơ thể suy nhược lâu ngày. Biểu hiện gồm họng khô, đau rát nhẹ, nói nhiều thấy mệt, khô miệng, miệng hôi, ho khan từng cơn, có thể ra mồ hôi trộm hoặc hay có cảm giác bứt rứt khó chịu vào buổi chiều tối. Lưỡi đỏ, ít rêu, mạch tế sác. Bài thuốc thường dùng là Bách hợp cố kim thang gia giảm, với các vị bách hợp, sinh địa, mạch môn, huyền sâm, bối mẫu, hoàng bá, tri mẫu, thạch hộc. Mục đích là tư âm giáng hỏa, nhuận phế, sinh tân chỉ khái, giúp phục hồi lại phần âm bị hư và làm dịu niêm mạc họng. Một thể bệnh khác thường gặp là viêm họng thể hư hỏa, hay còn gọi là viêm họng mạn tính. Người bệnh thường đau họng kéo dài, có lúc đau nhiều khi lại giảm, họng khô rát, khạc ra đờm đặc, giọng nói khàn, dễ mất tiếng, ho nhẹ nhưng dai dẳng, cơ thể mệt mỏi, ăn uống kém. Trong y học cổ truyền, đây là tình trạng do âm hư, phế âm bị tổn thương hoặc do lao lực, ăn uống không điều độ làm tân dịch suy hao. Bài thuốc thích hợp là Thanh yết thang gia giảm, có các vị hoài sơn, phục linh, ý dĩ, cam thảo, thiên hoa phấn, xạ can, ngưu bàng tử, thổ phục linh, bạch cương tàm, hoàng cầm. Những vị thuốc này có tác dụng dưỡng âm, thanh nhiệt, tiêu viêm và bảo vệ niêm mạc họng. Viêm họng, dù là cấp hay mạn tính, đều có thể điều trị hiệu quả nếu xác định đúng nguyên nhân và lựa chọn bài thuốc phù hợp. Bên cạnh việc dùng thuốc, người bệnh nên chú ý nghỉ ngơi, giữ ấm cơ thể, uống nhiều nước ấm, tránh thức ăn cay nóng hoặc đồ uống lạnh, đồng thời giữ vệ sinh răng miệng và họng sạch sẽ. Trong các trường hợp nặng hoặc viêm họng kéo dài không dứt, nên kết hợp thăm khám chuyên khoa tai mũi họng để được chẩn đoán và điều trị kịp thời, tránh biến chứng không mong muốn. Sự kết hợp hài hòa giữa y học hiện đại và y học cổ truyền sẽ giúp nâng cao hiệu quả điều trị và phục hồi sức khỏe cho người bệnh.
BS. Tú Uyên (Thọ xuân đường)