THAY ĐỔI SỢI BỌC TUYẾN VÚ
Thay đổi sợi bọc tuyến vú là một vấn đề khá thường gặp ở phụ nữ 20-40 tuổi, đa phần lành tính nhưng có thể gây những triệu chứng khó chịu cho bệnh nhân. Cùng tìm hiểu về sự thay đổi sợi bọc tuyến vú đối với sức khỏe nữ giới.
1. Các dạng thay đổi sợi bọc
- Bệnh nang
Thường gặp nhất, dưới dạng một (nhưng thường là nhiều) khối tròn hay bầu dục, kích thước khác nhau, vài mm đến vài cm, bên trong chứa dịch (thường dịch màu vàng trong, đôi khi màu kem, xanh nâu, xanh đen, rất hiếm khi màu đỏ). Vỏ nang thường mỏng, đôi khi dầy và có hóa canxi. Đây là dạng dễ điều trị nhất vì đa số ca chỉ cần rút dịch nếu nang to.
- Bệnh hóa sợi của vú
Biểu hiện dưới dạng mảng hay khối đặc, kích thước vài cm, giới hạn không rõ, thường ở ¼ trên ngoài của 1 vú, đau nhẹ trước mỗi kỳ kinh. Dạng bệnh hóa sợi đơn thuần này hiếm gặp, chỉ chiếm khoảng 5% các trường hợp thay đổi sợi-bọc. Bệnh nhân thường có cả tổn thương hóa sợi xen lẫn với tổn thương dạng nang kể trên.
- Tăng sản ống tuyến vú
Thường biểu hiện dưới dạng mảng hay khối đặc (không chứa dịch), có kích thước từ 1 – 4 cm, có thể chỉ có 1 mảng nhưng thường thì có nhiều mảng ở 1 hoặc 2 vú. Các mảng này có giới hạn không rõ ràng, mật độ chắc hơn tuyến vú xung quanh, đau khi ấn. Tính chất của mảng này thay đổi theo chu kỳ kinh: Gần ngày có kinh, kích thước sẽ to hơn và đau hơn. Khi có kinh, kích thước các mảng sẽ nhỏ lại và đau cũng sẽ giảm.
Đây là dạng phức tạp và cần được lưu ý theo dõi kỹ dù chỉ có rất ít bệnh nhân bị dạng này có ung thư vú.
2. Triệu chứng của thay đổi sợi bọc tuyến vú
Đau vú
Thường gặp nhất, có nhiều người do triệu chứng đau này mà sợ hãi đi khám bệnh. Cũng có nhiều người xem triệu chứng đau này là “bình thường”, đặc biệt khi họ tự nhận thấy tính chất của triệu chứng đau này thay đổi theo chu kỳ kinh nguyệt
- Thường xảy ra ở bệnh nhân còn trong thời kỳ kinh nguyệt, nhất là trong độ tuổi tiền mãn kinh, ở những bệnh nhân có bộ ngực dày.
- Có thể đau ở 1 hoặc cả 2 vú, vị trí thường đau nhiều là 1/4 trên-ngoài hoặc vùng 1/2 dưới của vú, có thể đau lan ra cánh tay cùng bên.
- Mức độ đau và thời gian đau rất thay đổi: Có người chỉ đau nhẹ vào 1 tuần lễ trước ngày có kinh, ít đau hơn khi có kinh. Có người đau liên tục, gần ngày có kinh thì đau nhiều hơn và ít đau hơn khi có kinh.
- Cùng với triệu chứng đau vú, nhiều bệnh nhân có cảm giác căng ở 2 vú.
Ở phụ nữ tiền mãn kinh, các nang bị xơ có thể to lên và gây cảm giác khó chịu như bị căng tức, rất nhạy cảm khi sờ vào, có cảm giác nóng phỏng và đau lăn tăn, có khi đau nhiều đến nỗi hạn chế cử động và khó nằm sấp. Sau khi mãn kinh, hiện tượng này thường giảm dần và mất đi.
Có tổn thương dạng mảng, dạng cục ở vú:
Đây là dấu hiệu thường gặp. Nhiều bệnh nhân tự sờ thấy, sợ hãi đi khám bệnh. Cũng có nhiều bệnh nhân không biết, chỉ phát hiện khi làm siêu âm vú hoặc chụp nhũ ảnh.
Khi khám vú có thể sờ được 1 hay nhiều mảng (hay khối) có kích thước khác nhau ở 1 hoặc cả 2 vú. Các mảng này thường có giới hạn không rõ, tùy theo tính chất đặc hay nang mà có mật độ khác nhau nhưng nói chung là người khám sẽ có cảm giác mô vú nơi đó chắc hơn mô tuyến vú xung quanh. Bệnh nhân thường có cảm giác đau hay khó chịu khi ấn vào tổn thương. Đặc biệt, tính chất thay đổi theo chu kỳ kinh của các mảng này thường được bệnh nhân nhận biết dễ dàng: mảng này thường to hơn, đau hơn khi gần có kinh và nhỏ hơn, ít đau hơn khi có kinh.
Một số trường hợp có nang to, tròn, chắc, di động, chứa nhiều dịch tạo cảm giác căng căng khi ấn lên và đau khi khám. Loại nang này thường biến mất sau vài lần hút dịch hoặc sau mãn kinh.
Chảy dịch ở đầu núm vú :
Ít gặp, ở một số ít bệnh nhân thay đổi sợi-bọc dạng tăng sản tuyến. Dịch có thể tự chảy ra, được phát hiện khi dính vào áo, đôi khi có rất ít chỉ chảy ra khi bóp nặn vào vùng có tổn thương. Chất dịch thường có màu vàng trong, hơi nhầy, đôi khi có màu trắng nhu sữa loãng, hoặc nâu xanh, hiếm khi có màu đỏ.
Ngoài ra, bệnh nhân có thể có rối loạn kinh nguyệt, đau bụng hoặc đau lưng nhiều khi hành kinh.
3. Chẩn đoán
Dựa vào lâm sàng :
Độ tuổi (nhất là tuổi tiền mãn kinh), triệu chứng đau ở vú, tính chất nhiều cục...
Siêu âm: Rất cần và luôn luôn nên thực hiện. Giúp xác định tính chất đặc hay nang, số lượng vị trí tổn thương, bướu sợi tuyến, với ung thư, với các loại bệnh khác.
Nhũ ảnh: Chỉ sử dụng khi thật cần thiết, vì gây đau nhiều, có tia phóng xạ và không có giá trị hơn siêu âm trong các trường hợp tuyến vú mỏng (rất nhiều bệnh nhân người Việt có tuyến vú mỏng).
Chỉ nên dùng trong những trường hợp sau : Phụ nữ có tiền căn gia đình ung thư vú. Khi siêu âm “thấy’’ có tổn thương nghi ngờ. Tuyến vú dày, siêu âm và lâm sàng không phát hiện được các tổn thương nhỏ.
Chọc hút bằng kim nhỏ (FNA: Fine Needle Aspiration)
Để giúp xác định bản chất tế bào của tổn thương, được dùng khi:
- Tổn thương dạng đặc. Nếu có nhiều tổn thương thì siêu âm và/hoặc nhũ ảnh sẽ hướng dẫn cho biết những tổn thương nào cần được làm FNA.
- Tổn thương dạng nang: Rút dịch, giúp giải áp (đỡ căng đau, khó chịu) xét nghiệm tế bào học.
Sinh thiết: Để làm xét nghiệm giải phẫu bệnh, được dùng khi:
- Tổn thương dạng đặc có giới hạn rõ.
- Tổn thương dạng nang chứa dịch đỏ.
- Tổn thương dạng nang tái lập nhiều lần sau chọc hút và làm bệnh nhân lo lắng hoặc đau nhiều.
- Kết quả của FNA có tế bào tăng sản không điển hình.
Xét nghiệm khác
Các xét nghiệm định lượng estradiol, progesterone, prolactine trong huyết thanh không thực sự cần thiết vì tốn kém và không đặc hiệu, không giúp chẩn đoán xác định và chẩn đoán nguyên nhân bệnh.
Phết tế bào của dịch tiết từ đầu núm vú: thường không có hoặc có một ít tế bào mỡ, tế bào biểu mô, bọt bào… Xét nghiệm này có độ nhạy rất thấp và thường không giúp phát hiện được ung thư vú.
4. Chẩn đoán phân biệt
- Đau vú cần phân biệt với: Đau dây thần kinh liên sườn, đau xương sườn (trong viêm xương sụn - Hội chứng Tieze), bệnh zona ở vùng ngực, đau thắt ngực trong bệnh của mạch vành tim. Các loại đau này thường không thay đổi tính chất theo chu kỳ kinh nguyệt.
- Các tổn thương dạng mảng, dạng cục của vú cần được phân biệt với ung thư vú, bướu sợi-tuyến của vú.
5. Điều trị
Nguyên tắc điều trị
- Trước khi điều trị cần loại trừ hoàn toàn khả năng bị ung thư vú.
- Cần đánh giá chính xác và đầy đủ dạng tổn thương, đặc hay nang, có tăng sản tuyến không điển hình hay không.
Mục đích điều trị
- Giảm các triệu chứng đau và tăng nhạy cảm vú.
- Giảm thiểu mô vú bị thay đổi sợi-bọc: Để đạt được mục tiêu này, nhiều công trình nghiên cứu đã được thực hiện, nhưng đến nay, chưa có phương pháp điều trị nào đạt được hiệu quả hoàn toàn. Cần lưu ý rằng việc điều trị nội khoa không thể làm giảm nguy cơ bị ung thư vú hoặc làm giảm mức độ tăng sản không điển hình của tổn thương. Do đó, nếu có tổn thương nghi ngờ, dù chỉ là nghi ngờ tăng sản không điển hình cũng cần phẫu thuật cắt bỏ tổn thương.
Bác sĩ: Thúy Hường (Thọ Xuân Đường)
Để được tư vấn về các vấn đề sức khỏe hãy liên hệ ngay Đông y gia truyền Thọ Xuân Đường
Địa chỉ: Số 7 khu Thủy Sản, Ngõ 46 Lê Văn Thiêm, Nhân Chính, Thanh Xuân, Hà Nội.
Hotline tư vấn: 093.763.82.82 hoặc 0943. 986. 986