CƠ CHẾ CỦA BỆNH ĐỘNG KINH
Có rất nhiều nghiên cứu khoa học về bệnh động kinh nhưng hiện nay cơ chế bệnh sinh của bệnh vẫn chưa được hoàn toàn sáng tỏ. Qua các nghiên cứu có thể tổng kết được một số cơ chế dưới đây.
Động kinh xảy do sự phóng điện kịch phát ở não và tăng sự đồng bộ của các nơron ở não. Sự tăng kích thích các nơron ở não xảy ra do kết hợp hai yếu tố:
• Ngưỡng co giật thấp (liên quan đến yếu tố di truyền).
Thường lúc nhỏ, khi sốt trẻ hay bị co giật, mặc dù sốt không cao.
• Các yếu tố bất thường gây động kinh (tổn thương ở não, nhiễm độc, rối loạn chuyển hoá…) gây nên phóng điện kịch phát ở vỏ não.
Sự phóng điện kịch phát ở vỏ não là do phản ứng “mắc nối điện” của các nơron thông qua tác dụng vào hệ K- Na- ATPaza của màng tế bào, giúp cho giải phóng chất trung gian hoá học ở xinap, gây kìm hãm sự ức chế ở vỏ não, từ đó gây nên cơn động kinh. Sự phóng điện kịch phát có hai cơ chế chủ yếu:
- Do sự tăng khử cực của màng tế bào thần kinh: Khi các yếu tố bệnh lý tác động lên các nơron thần kinh dẫn đến tăng lượng ion K+ ra ngoài tế bào, gây khử cực các tế bào và nơron phóng điện.
- Màng tế bào là vị trí cốt yếu của các bất thường gây phát sinh cơn động kinh vì là đích của các thụ thể tiếp nhận dẫn truyền thần kinh. Thụ thể NMDA có vai trò hoạt hóa các axit amin loại kích thích như glutamate, thụ thể này có thể hoạt hóa và gây cơn động kinh khi có tổn thương não mạn tính. Nó có thể duy trì các cơn động kinh, các cơn động kinh cũng lại có thể giải phóng chất dẫn truyền thần kinh, vì vậy tạo thành vòng tròn bệnh lý.
- Do giảm hoạt động của chất GABA: GABA (gamma-amimo-butyric-acide) là chất dẫn truyền thần kinh loại ức chế, có tác dụng tăng ngưỡng chịu kích thích của các nơron vỏ não. Việc ức chế hoạt động của GABA hoặc ức chế giải phóng chất GABA là nguyên nhân gây ra động kinh.Về điểm này đã có nhiều bằng chứng: GABA - chất dẫn truyền thần kinh loại ức chế tác động trên một thụ thể phức phối hợp, thụ thể này điều hòa sự đi vào tế bào của Clo: khi nó bị kích thích nó sẽ mở ra cho Clo đi vào tế bào và làm giảm bớt tính kích thích của tế bào từ đó có tác dụng chống động kinh.
1. Cơ chế bệnh sinh chủ yếu của cơn co giật
• Hoạt động ức chế của GABA bị giảm:
Các chất gây ức chế phức hợp ion Clo-GABA đều có thể là nguyên nhân gây động kinh gồm: Tetramethylene disulfotetramine (hoá chất diệt chuột nguồn gốc từ Trung Quốc, tác dụng rất mạnh), các thuốc chống trầm cảm, ciprofloxacin, imipenem, penicillin… và các chất ức chế monoamine oxidase (IMAO).
Người uống rượu kéo dài khiến tác dụng ức chế tế bào não của GABA bị giảm làm thay đổi tính nhạy cảm của GABA với các thụ thể.
• Các thụ thể glutamate bị kích thích quá mức:
Khi bị sốt thân nhiệt tăng cao thì sẽ tăng sản xuất glutamate và tăng tốc độ chuyển hoá ở não gây nên co giật. Một số nghiên cứu trên động vật cũng cho thấy khi nồng độ glutamate tăng trong khi tăng thân nhiệt làm cho con vật dễ bị co giật.
• Rối loạn các hệ thống điều hoà chức năng kích thích và ức chế.
• Rối loạn kênh ion của bao myelin:
Thuốc 4-Aminopyridine dùng trong điều trị xơ hoá rải rác có thể gây co giật nếu dùng quá liều, vì thuốc chẹn kênh kali, tăng giải phóng chất dẫn truyền thần kinh và tăng nồng độ canxi ở tiền xinap. Những xinap tăng hoạt động kích thích trên những tế bào tháp làm cho các nơron này đến gần ngưỡng sinh ra động kinh, sự gia tăng này gồm có:
- Gia tăng số lượng xinap kích thích.
- Tăng tiềm lực lâu dài (khả năng tái tăng tiềm lực), gia tăng chắc chắn của sự đáp ứng của nơron hậu xinap.
- Thay đổi tiền và hậu xinap: thay đổi tiền xinap đưa đến sự phóng các bọng chứa glutamate vào khe xinap, sự thay đổi chuyển dịch những thụ thể ngoài xinap về hướng hậu xinap cũng gây ảnh hưởng đối với sự cân bằng giữa kích thích và ức chế.
- Sự lan truyền của cơn động kinh xảy ra theo nhiều cơ chế. Ngoài sự dẫn truyền xinap, vòng điều chỉnh đồi thị - vỏ não, còn có hiệu ứng ephaptic, sự xuất hiện điện thế lạc vị cùng sự lan truyền ngược dọc theo axon cũng đóng một vai trò nhất định.
2. Cơ chế duy trì cơn động kinh
Cơn động kinh có thể duy trì kéo dài được nhờ có 3 yếu tố quan trọng sau:
- Sự mất thăng bằng giữa hưng phấn và ức chế.
- Các tế bào phát nổ hoạt động theo nhịp riêng thoát khỏi sự kiểm soát xinap.
- Những cơ chế đồng bộ hoá dẫn đến sự tập kết phóng điện của các tập đoàn động kinh, rồi lan sang vùng não khác. Ổ động kinh nguyên phát khu trú ở đâu và mức độ của sự lan truyền thứ phát sẽ dẫn đến các dạng cơn khác nhau trên lâm sàng.
3. Cơ chế kết thúc cơn động kinh
Bơm Na+ và K+ chiếm ý nghĩa quyết định trong việc kết thúc cơn động kinh.
Các ion dương được chuyển ra ngoại bào, canxi tích tụ trong nội bào sẽ mở các kênh kalium phụ thuộc canxi và dẫn đến tình trạng tăng phân cực.Các quá trình này sẽ làm chấm dứt sự phóng điện trong cơn động kinh và kết thúc cơn trên lâm sàng.
Bác sĩ: Lê Thanh Xuân (Thọ Xuân Đường)