NHỮNG NGUYÊN NHÂN GÂY BỆNH ĐỘNG KINH
Động kinh là một tình trạng bệnh lý mạn tính được biểu hiện bằng các cơn co giật. Những cơn động kinh có thể xảy ra bất cứ lúc nào và có thể gây nguy hiểm đến sức khỏe, tính mạng của bệnh nhân. Việc tìm hiểu xác định nguyên nhân của bệnh là rất quan trọng trong công tác điều trị.
Về nguyên nhân động kinh đến nay vẫn chưa được làm sáng tỏ hoàn toàn, nhưng bao gồm 2 nhóm chính:
- Động kinh vô căn (nguyên phát): không tìm được tổn thương thực thể của não trong tiền sử và hiện tại.
- Động kinh triệu chứng (thứ phát): tìm thấy các nguyên nhân tổn thương thực thể ở não như u não, chấn thương não.
1. Động kinh vô căn (nguyên phát)
- Động kinh vô căn chiếm 55- 75% trong tổng số trường hợp mắc bệnh động kinh. Bệnh thường khởi phát đột ngột (đa số ở lứa tuổi 5-20) và trước đó không có nguyên nhân về sự tổn thương của não bộ.
- Động kinh vô căn thường liên quan đến yếu tố di truyền (10- 25% trường hợp) do sự đột biến một phần các gen mã hóa các kênh ion trong cơ thể.
- Ngưỡng co giật là một phần của yếu tố di truyền, nó biểu thị sức chịu đựng của một người trước các nguyên nhân gây khởi phát cơn co giật. Mỗi người có một ngưỡng giật khác nhau nhưng người bị động kinh vô căn sẽ có ngưỡng co giật thấp hơn. Khuynh hướng phát triển của động kinh vô căn có thể liên quan tới gen từ 70 - 90%.
- Động kinh vô căn thường khởi phát sau những cơn sốt cao co giật kéo dài, tác động từ môi trường sống hoặc sang chấn về tinh thần.
2. Động kinh triệu chứng (thứ phát)
Động kinh triệu chứng (thứ phát) là loại động kinh có nguyên nhân bắt nguồn từ những tổn thương thực thể ở não, nói cách khác là hệ quả của những bệnh lý gây tổn thương não, bao gồm:
• Tổn thương thực thể não
- Chấn thương sọ não, sang chấn sọ, phẫu thuật sọ não gây nhiều loại động kinh: Động kinh thường khởi phát sớm trong vòng 5 năm đầu sau chấn thương, rất ít sau 10 năm.
- Khối u trong não: Động kinh do u chiếm 10% so với các nguyên nhân khác.
U hay gây động kinh phần lớn là u trên lều, ở bán cầu đại não, u lành tính, u tế bào ít nhánh, u màng não, u tế bào hình sao, rất ít trường hợp do u ác tính hoặc u di căn từ cơ quan khác đến. Ở người 20-50 tuổi 75% động kinh là do khối u.
- Nhiễm khuẩn nội sọ, áp xe não, viêm não cấp, viêm màng não cấp do vi khuẩn, virus, ấu trùng sán, giun chỉ, giang mai thần kinh.
- Bệnh lý về mạch máu:
+ Dị dạng phồng động- tĩnh mạch: thường phát hiện sau một cơn động kinh, phẫu thuật xong thì vẫn còn 2/3 số người có cơn động kinh do sẹo để lại.
+ Tai biến mạch máu não: Có khoảng 5-15 % bệnh nhân có các cơn co giật. Xuất huyết não ở giai đoạn cấp, nhồi máu não ở giai đoạn thành sẹo. Những cơn co giật trong giai đoạn cấp không có nghĩa là bị bệnh động kinh nhưng rất có thể để lại di chứng động kinh sau này.
- Dị tật trong thời kỳ chu sinh, bị ngạt khi sinh, phải lấy thai bằng forcep gây tổn thương não.
- Bất thường cấu trúc não bẩm sinh khiến não bộ không thể thực hiện được tất cả các chức năng như bình thường.
• Những nguyên nhân khác
- Các rối loạn chuyển hóa trong cơ thể như: hạ Canxi máu, hạ Kali máu, tăng hoặc giảm Natri máu, hạ Glucose máu, thiếu hụt pyridoxin, acid phenylpyruvic niệu.
- Do sốt cao co giật, thiếu oxy cấp, ngộ độc hoặc quá liều một số loại thuốc thuốc chống sốt rét, INH, thuốc ngủ, CO2, heroin, các loại ma túy, thuốc điều trị thần kinh, theophylline, penicillin G liều cao, metronidazole, isoniazid, lithium, lidocain, clozapine, cyclosporine , bupivacaine…
- Bệnh nhân cai nghiện rượu, dùng thuốc ngủ kéo dài, dùng thuốc chống trầm cảm 3 vòng, bệnh nhân bị Alzheimer, suy thận, đái tháo đường, u điểm mù (bệnh xơ cũ Bourneville), Creutzfield – Jakob, xơ cứng rải rác…
- Bệnh nhân AIDS bị nhiễm toxoplasma, viêm não virus hoặc các biến chứng nhiễm khuẩn khác, động kinh thường khởi phát sau năm đầu khi bị áp xe não.
- Động kinh: Người bệnh không tuân thủ việc điều trị thuốc, thay đổi thuốc chống động kinh thời gian gần đây.
- Do phương thức di truyền phức tạp liên quan đến môi trường.
Bác sĩ: Lê Thanh Xuân (Thọ Xuân Đường)