CHẨN ĐOÁN BỆNH ĐỘNG KINH
Với người làm chuyên môn thì chẩn đoán bệnh động kinh không khó, nhưng đối với nhiều người thì đôi khi họ chỉ biết và gọi đó là bệnh co giật. Vì vậy cần có một kiến thức khái quát, tổng thể để mọi người dễ dàng nhận biết bệnh động kinh cũng như cách thức để chẩn đoán bệnh.
1. Chẩn đoán xác định
Chẩn đoán động kinh dựa trên: lâm sàng và điện não.
• Lâm sàng
Dựa vào định nghĩa động kinh và lời kể của nhân chứng vì khi cơn động kinh xảy ra người bệnh thường bị mất ý thức không nhớ những gì xảy ra trong cơn. Việc thuật lại cơn động kinh của người quan sát được sẽ giúp ích cho bác sĩ trong chẩn đoán dạng thể của cơn động kinh.
Đặc điểm chung của các loại cơn động kinh là:
- Xuất hiện đột ngột, mỗi lần cơn lại lặp lại giống nhau, ít nhất đã từng có hai cơn.
- Các biểu hiện bệnh phù hợp với một loại cơn động kinh nhất định.
- Nếu cơn xuất hiện về đêm, trong cơn có rối loạn ý thức, mất định hướng, cắn phải lưỡi, nhiều khả năng là cơn động kinh.
• Điện não đồ
Trong cơn thấy sóng động kinh điển hình, ngoài cơn không còn sóng động kinh điển hình hoặc điện não đồ bình thường.
Bất kể loại cơn gì dù là cơn đau bụng, khó thở… xảy ra trong thời gian ít phút đều không loại trừ động kinh và phải ghi điện não đồ.
2. Chẩn đoán nguyên nhân cơn động kinh
Để xác định nguyên nhân của cơn động kinh cần dựa vào:
- Triệu chứng lâm sàng của cơn, độ tuổi khởi phát.
- Phương pháp cận lâm sàng đặc hiệu như: Xét nghiệm, điện não đồ, chụp CT – Scanner, MRI, Spect, hay chụp động mạch não…
Chỉ chẩn đoán bệnh động kinh vô căn khi: là cơn động kinh toàn thể, không kèm dấu hiệu thần kinh khu trú, các kết quả cận lâm sàng hoàn toàn bình thường. Động kinh vô căn thường xảy ra ở trẻ em và thanh thiếu niên 5-20 tuổi.
3. Chẩn đoán phân biệt
Cần phân biệt cơn động kinh với một số các bệnh có cơn co giật khác như:
• Cơn ngất
Cơn ngất (Syncope): Bệnh nhân mất ý thức ngắn cơn thường xảy ra khi đứng do thiếu oxy và giảm lưu lượng máu não. Trước khi ngất bệnh nhân thường có các triệu chứng chóng mặt, hạ huyết áp, buồn nôn, vã mồ hôi, nếu bệnh nhân ngồi xuống có thể tránh được cơn hoặc chỉ ngất thoáng qua.
Cơ chế của ngất, do giãn mạch và tụt huyết áp tiếp đó là tăng hoạt động của thần kinh phế vị làm giảm nhịp tim dẫn tới thiếu oxy ở não.
Nguyên nhân của ngất: kích thích xoang động mạch cảnh hoặc dây phế vị, rối loạn nhịp tim (tim đập dưới 15 lần/phút; ngừng tim hoàn toàn trong 1-2 phút; phân ly nhĩ thất hoàn toàn), tụt huyết áp tư thế đứng.
• Cơn hysteria (cơn co giật phân ly)
Do yếu tố chấn động tâm lý nào đó, thường ở trước chỗ đông người bệnh nhân xuất hiện co giật kéo dài,chân tay giãy đạp lung tung thường có xu hướng uốn cong người lên, hai mí mắt nhắm nhưng nhấp nháy, không mất ý thức, sắc mặt không thay đổi, không cắn phải lưỡi, không tiểu dầm, cơn giật hỗn độn không thành nhịp. Một kích thích đột ngột mạnh làm hết cơn. Sau cơn nhớ những gì đã xảy ra. Khám thần kinh bình thường. Ðiện não đồ (EEG) bình thường. Có thể có hysterie kết hợp động kinh.
• Co giật hạ canxi máu (tetanie):
Hay gặp ở trẻ nhỏ, biểu hiện là co cơ cục bộ hoặc toàn bộ, đặc biệt là co cứng các cơ ở bàn tay tạo tư thế bàn tay sản khoa. Xét nghiệm thấy canxi máu giảm. EEG không có sóng động kinh điển hình.
• Cơn hạ đường huyết:
Cơn thường xảy ra lúc đói. Đường huyết hạ nhanh phối hợp với các triệu chứng đói bụng, cồn cào, co giật, hôn mê làm tim đập nhanh, vã mồ hôi. Bệnh nhân tỉnh nhanh khi tiêm glucose ưu trương tĩnh mạch. Chẩn đoán quyết định thử đường huyết trong cơn.
• Thiếu năng tuần hoàn não
Tai biến mạch máu não tạm thời, đột ngột, nói khó, rối loạn cảm giác, liệt nửa người, cơn kéo dài hơn động kinh, bệnh nhân thường tỉnh táo. Thời gian tồn tại liệt thường dài và ý thức ít khi rối loạn lúc khởi đầu.
• Sốt cao co giật ở trẻ em
Co giật do sốt cao là bệnh hay gặp ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, thường xảy ra khi trẻ từ 3 tháng đến 5 tuổi. Cơn co giật không có nguyên nhân nhất định, không phải bệnh động kinh nhưng nếu lặp lại nhiều thì sau này dễ bị động kinh.
Biểu hiện lâm sàng: co giật do sốt cao có xu hướng xảy ra sớm trong khi nhiệt độ đột ngột tăng lên quá cao. Cơn co giật toàn bộ chiếm 85%, cơn cục bộ chỉ chiếm số lượng ít. Khoảng 80% trẻ biểu hiện bằng cơn co giật, 14% là cơn tăng trương lực và 6% là cơn mất trương lực.
Những cơn co giật có đặc điểm dưới đây thì có nguy cơ cao gây động kinh:
- Cơn kéo dài quá 15 – 30 phút.
- Nhiều cơn trong vòng 24 giờ.
- Cơn co giật cục bộ hoặc có liệt kiểu todd (liệt 1 thời gian ngắn rồi tự hồi phục)
Những cơn co giật có 1 trong 3 đặc điểm trên thì được coi là cơn co giật phức tạp. Co giật bình thường chỉ cần theo dõi vì thông thường các cơn co giật sẽ tự hết. Nếu tiếp tục co giật, cơn co giật phức tạp hay gặp một trong những trường hợp sau thì nên đưa trẻ đến bệnh viện:
- Nghi ngờ có bệnh nặng như viêm não.
- Sốt cao, trẻ < 18 tháng, chưa được khám xét gì.
- Gia đình không đủ điều kiện theo dõi.
4. Lưu ý khi chẩn đoán phân biệt co giật với động kinh
- Động kinh là rối loạn có đặc điểm là từ 2 hoặc nhiều cơn co giật tự phát do tổn thương não. Vì thế có một cơn co giật kiểu động kinh thì chưa được gọi là động kinh.
- Có hai dấu hiệu như lú lẫn và cắn phải lưỡi là những dấu hiệu quan trọng để phân biệt cơn động kinh với ngất.
- Các xét nghiệm cận lâm sàng như điện não đồ, đo nồng độ các men prolactin hay creatinine kinase sau cơn co giật cũng giúp cho chẩn đoán.
- Cơn co giật kiểu động kinh cũng có thể là cơn co giật do phản ứng, cơn co giật triệu chứng cấp do: hạ Ca++, hạ Mg++, hạ Na+máu, hạ hoặc tăng đường huyết, viêm não, viêm màng não, chấn thương sọ não, tai biến, cai rượu.
- Khi điều trị các nguyên nhân gây co giật hiệu quả thì các cơn co giật này cũng thường được giải quyết dứt điểm.
Bác sĩ: Lê Thanh Xuân (Thọ Xuân Đường)