Trong nhiều thế kỷ, cây trinh nữ (Vitex agnus-castus) đã được sử dụng để điều trị nhiều tình trạng phụ khoa liên quan đến hormone. Các tài liệu hiện tại hỗ trợ việc sử dụng cây trinh nữ để điều trị chứng khó chịu ở ngực theo chu kỳ và hội chứng tiền kinh nguyệt; dữ liệu về việc sử dụng cây này để điều trị chứng kinh nguyệt không đều và rối loạn khả năng sinh sản còn yếu. Việc sử dụng cây này theo truyền thống như một chất kích thích tiết sữa (tức là một chất giúp tăng sản xuất sữa mẹ) không được hỗ trợ tốt trong các tài liệu và nên được ngăn cấm. Không có dữ liệu lâm sàng nào hỗ trợ việc sử dụng cây trinh nữ để giảm ham muốn tình dục, vốn là một ứng dụng truyền thống. Cây trinh nữ được dung nạp tốt; các tác dụng phụ được báo cáo là nhẹ và có thể bao gồm các khiếu nại về đường tiêu hóa, chóng mặt và khô miệng. Không có tương tác thuốc-thảo dược nào được báo cáo, nhưng nên thận trọng khi sử dụng đồng thời với chất chủ vận hoặc chất đối kháng dopamine. Các khuyến nghị về chuẩn hóa và liều dùng tối ưu đang chờ được làm rõ trong các nghiên cứu lâm sàng.
Dược lý học
Quả của cây trinh nữ chứa một số thành phần hoạt tính: flavonoid (tức là casticin, kaempferol, orientin, quercetagetin và isovitexin), glycoside iridoid (tức là agnuside và aucubin) và tinh dầu (tức là limonene, cineol, pinene và sabinene). Cây trinh nữ cho thấy hoạt động dopaminergic trung ương trong ống nghiệm và trong cơ thể sống. Tác dụng dopaminergic này ức chế giải phóng prolactin được kích thích bởi hormone giải phóng thyrotropin và hormone giải phóng cơ bản.
Tác dụng điều trị của cây trinh nữ được cho là do tác dụng gián tiếp của nó lên nhiều loại hormone, đặc biệt là prolactin và progesterone. Tác dụng hormone này có vẻ phụ thuộc vào liều dùng: liều thấp của chiết xuất dẫn đến giảm nồng độ estrogen và tăng nồng độ progesterone và prolactin, có thể là do ức chế giải phóng hormone kích thích nang trứng và kích thích nồng độ hormone hoàng thể.
Tuy nhiên, trong một số nghiên cứu về những người dùng liều cao hơn, nồng độ hormone kích thích nang trứng và hormone hoàng thể vẫn không thay đổi, trong khi giải phóng prolactin giảm. Những tác dụng này có thể giải thích tại sao liều thấp hơn của loại thảo mộc này có thể kích thích sản xuất sữa mẹ, trong khi liều cao hơn dường như có tác dụng ngược lại.
Công dụng và hiệu quả
Trong 50 năm qua, 30 thử nghiệm về cây trinh nữ ở Châu Âu (hầu hết là không có đối chứng hoặc không mù đôi) đã báo cáo về sự cải thiện các rối loạn kinh nguyệt và liên quan đến kinh nguyệt. Trong 10 năm qua, một số thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng mù đôi quy mô nhỏ nhưng chất lượng cao đã xem xét nhiều tác dụng khác nhau của cây trinh nữ.
Hội chứng tiền kinh nguyệt và khó chịu vú theo chu kỳ
Trong các thử nghiệm lâm sàng để điều trị hội chứng tiền kinh nguyệt, cây trinh nữ làm giảm một số triệu chứng, đặc biệt là đau hoặc nhạy cảm ở ngực, phù nề, táo bón, cáu kỉnh, tâm trạng chán nản, tức giận và đau đầu.
Nhiều thực nghiệm lâm sàng mù đôi đã đánh giá các chế phẩm cây trinh nữ khác nhau để điều trị các triệu chứng của hội chứng tiền kinh nguyệt. Hai thử nghiệm có chất lượng kém hơn và thấy ít khác biệt hoặc cải thiện nhỏ về cơn đau vú. Một thực nghiệm lâm sàng mù đôi có triển vọng, chất lượng cao hơn gần đây cho thấy sự cải thiện đáng kể trong các triệu chứng tự đánh giá liên quan đến hội chứng tiền kinh nguyệt và trong điểm ấn tượng toàn cầu về lâm sàng do bác sĩ đánh giá đo mức độ nghiêm trọng của tình trạng, sự cải thiện toàn cầu và lợi ích tổng thể so với rủi ro ( P = .001; số cần điều trị = 4). Nghiên cứu, đặc biệt giải quyết tình trạng đầy vú nhưng không đau, bao gồm 170 phụ nữ được chẩn đoán mắc hội chứng tiền kinh nguyệt đã được chiết xuất chuẩn hóa từ quả cây trinh nữ (Ze 440, chuẩn hóa thành casticin) hoặc giả dược trong ba chu kỳ kinh nguyệt. Hơn một nửa số phụ nữ đã giảm 50 phần trăm hoặc hơn các triệu chứng. Tỷ lệ chấp nhận của bệnh nhân cao và tác dụng phụ ít và nhẹ. Một thử nghiệm mù đôi, có đối chứng giả dược khác trong số 104 phụ nữ đã kiểm tra tác dụng của hai dạng cây trinh nữ (dạng lỏng và dạng viên) trong ít nhất ba chu kỳ kinh nguyệt. Những phụ nữ trong nhóm điều trị cho thấy tình trạng đau ngực theo chu kỳ được cải thiện.
Một nghiên cứu trước đó đã tìm thấy hiệu quả tương đương đối với cây trinh nữ và vitamin B6 , cả hai đều làm giảm các triệu chứng gần 50 phần trăm. Nghiên cứu này được kiểm soát bằng giả dược, nhưng không phải là nghiên cứu mù đôi, và có quy mô mẫu không tối ưu. Ba thử nghiệm mở liên quan đến từ 400 đến 1.600 bệnh nhân cũng cho thấy sự cải thiện đáng kể các triệu chứng hội chứng kinh nguyệt khác nhau nhưng không được kiểm soát và có chất lượng kém hơn.
Rối loạn kinh nguyệt, vô kinh và sinh sản
Bệnh nhân sử dụng cây trinh nữ để điều trị nhiều chứng rối loạn kinh nguyệt và rối loạn khả năng sinh sản; ở Đức, bác sĩ kê đơn loại thảo mộc này để điều trị chứng rối loạn hoàng thể.
Kết quả của một thực nghiệm lâm sàng nhỏ liên quan đến 96 phụ nữ bị rối loạn khả năng sinh sản (38 phụ nữ bị vô kinh thứ phát, 31 người bị suy hoàng thể và 27 người bị vô sinh vô căn) cho thấy những bệnh nhân dùng cây trinh nữ có khả năng mang thai dễ dàng hơn so với những phụ nữ trong nhóm dùng giả dược. Những đối tượng này được dùng cây trinh nữ hoặc giả dược hai lần mỗi ngày trong ba tháng. Nồng độ hormone không khác nhau, nhưng ở những phụ nữ bị vô kinh hoặc suy hoàng thể, nhóm điều trị tích cực có thai nhiều hơn gấp đôi so với nhóm dùng giả dược. Tuy nhiên, tổng số bệnh nhân thụ thai là ít (15 phụ nữ), phương pháp điều trị chỉ được thực hiện trong ba tháng và sản phẩm được sử dụng (Mastodynon, hiện không có sẵn tại Hoa Kỳ) có chứa năm loại thảo mộc bổ sung chưa được Ủy ban E của Đức chấp thuận báo cáo.
Trong một thực nghiệm lâm sàng nhỏ khác liên quan đến 52 bệnh nhân bị khiếm khuyết pha hoàng thể, những phụ nữ trong nhóm điều trị tích cực được phát hiện có sự giải phóng prolactin giảm, pha hoàng thể bình thường hóa, tổng hợp progesterone pha hoàng thể cải thiện và tăng estradiol pha hoàng thể. Nghiên cứu này dường như ủng hộ việc sử dụng cây trinh nữ cho các rối loạn pha hoàng thể, nhưng tác dụng thực tế đối với khả năng sinh sản không được đề cập. Một nghiên cứu thí điểm mù đôi có đối chứng giả dược gần đây trên trong số 30 phụ nữ cho thấy xu hướng tăng nồng độ progesterone pha giữa hoàng thể và số lần mang thai tăng lên ở 15 phụ nữ dùng thực phẩm bổ sung có chứa cây trinh nữ trong năm tháng.
Sữa mẹ và ham muốn
Không có đủ bằng chứng để hỗ trợ việc sử dụng cây trinh nữ theo truyền thống để tăng cường sản xuất sữa mẹ (tức là, như một chất kích thích tiết sữa). Một số bằng chứng cho thấy liều thấp có thể làm tăng sản xuất sữa ở những phụ nữ đang cho con bú. Một nghiên cứu nhỏ liên quan đến 20 người đàn ông khỏe mạnh cho thấy mức độ prolactin tăng lên ở những người dùng liều cây trinh nữ thấp (120 mg mỗi ngày) nhưng giảm tiết prolactin ở liều cao hơn (480 mg mỗi ngày).
Cây trinh nữ cũng được dùng để điều chỉnh ham muốn tình dục, thường là để giảm ham muốn tình dục, nhưng đôi khi để cải thiện ham muốn tình dục giảm sút. Tuy nhiên, không có dữ liệu lâm sàng nào hỗ trợ cho những chỉ định này.
Tương tác, Tác dụng phụ và Chống chỉ định
Không có báo cáo nào về tương tác thuốc với cây trinh nữ, nhưng xét đến tác dụng dopaminergic của nó, về mặt lý thuyết, loại thảo mộc này có thể can thiệp vào tác dụng của thuốc điều trị bệnh Parkinson, chẳng hạn như bromocriptine (Parlodel) và metoclopramide (Reglan).
Cây trinh nữ thường được dung nạp tốt, chỉ có một số ít tác dụng phụ được báo cáo; trong nhiều nghiên cứu, những tác dụng này tương tự như giả dược. Các tác dụng phụ thường có bản chất là dopaminergic và có thể bao gồm các triệu chứng nhẹ ở đường tiêu hóa, chóng mặt, nhức đầu, mệt mỏi và khô miệng. Một báo cáo mô tả một trường hợp co giật về đêm ở một bệnh nhân dùng rễ cây rắn đen, dầu hoa anh thảo và chasteberry; tuy nhiên, mối quan hệ nhân quả với cây trinh nữ vẫn còn nghi ngờ.
Việc sử dụng cây trinh nữ trong thời kỳ mang thai là chống chỉ định và việc sử dụng cây này trong thời kỳ cho con bú vẫn còn gây tranh cãi. Cho đến khi có thêm các nghiên cứu được tiến hành, việc sử dụng cây này để hỗ trợ cho con bú nên được khuyến khích.
Một số ít nghiên cứu lâm sàng chất lượng cao hiện có về cây trinh nữ có quy mô nhỏ hoặc thời gian nghiên cứu hạn chế, điều này hạn chế khả năng áp dụng các phát hiện này cho một nhóm dân số lớn hơn. Bằng chứng dường như ủng hộ việc sử dụng cây trinh nữ cho các triệu chứng của hội chứng tiền kinh nguyệt và khó chịu ở ngực theo chu kỳ, với một số bằng chứng sơ bộ về tình trạng vô sinh. Bằng chứng về việc sử dụng cây trinh nữ trong các tình trạng khác vẫn chưa có kết luận.
Cây trinh nữ được dung nạp tốt, với ít tác dụng phụ và không có tương tác thuốc thảo dược nào được báo cáo. Liều lượng khuyến cáo và phác đồ điều trị thay đổi tùy theo nhãn hiệu, công thức và kinh nghiệm giai thoại; các tiêu chuẩn tối ưu đang chờ làm rõ trong các nghiên cứu lâm sàng.
Cây trinh nữ được khuyến khích sử dụng như một loại thuốc thảo dược trên toàn cầu để điều trị nhiều rối loạn phụ khoa. Trong nghiên cứu, chiết xuất cây trinh nữ đã được bổ sung vào chế độ ăn của cá vàng để đánh giá phản ứng miễn dịch ở cấp độ tế bào và phân tử. Hơn nữa, sau thử nghiệm cho ăn, cá đã được thử thách với Aeromonas hydrophila . Cá (300 cá thể, trọng lượng ban đầu 2,4 ± 0,12 g) được phân bổ ngẫu nhiên vào 12 bể và được cho ăn 0 (đối chứng), 5, 10 và 15 g chiết xuất cây trinh nữ trên mỗi kg thức ăn trong 8 tuần. Dựa trên kết quả, hoạt động của lysozyme , phosphatase kiềm và tổng số globulin miễn dịch (Ig) trong các mẫu chất nhầy da được tăng cường đáng kể ở những con cá được cho ăn 15 g/kg cây trinh nữ ( P < 0,05). Hơn nữa, chiết xuất Cây trinh nữ trong chế độ ăn uống có tác động tích cực đến hoạt động của lysozyme , các thành phần bổ sung và hàm lượng IgM trong các mẫu huyết thanh so với nhóm đối chứng. Ngoài ra, số lượng tế bào đơn nhân và tế bào lympho tăng lên đáng kể khi tăng cây trinh nữ trong chế độ ăn ( P < 0,05).
BS. Nguyễn Yến (Thọ Xuân Đường)