Bách hội lại có tên là Tam dương ngũ hội, Thiên mãn, Nê hoàn cung, Đính thượng, Duy hội, Quỷ môn, Thiên sơn, là “là hội của thủ túc tam dương và Đốc mạch” “Châm cứu đại thành”. Đầu là hội của chư dương, nguyên nhân do huyệt này nằm ở đỉnh đầu, có thể quán thông các dương kinh, cho nên gọi tên là “Bách hội”. Có sách viết: “Huyệt này là giao của Túc thái dương, Thủ túc thiếu dương và Túc quyết âm, Đốc mạch” (là nơi giao giữa tam dương kinh, kinh can và Đốc mạch, cộng lại là hội của 5 kinh mạch), cho nên gọi là “ Tam dương ngũ hội”.
Công năng
Biện chứng chọn huyệt
Dùng tả pháp, thì có tác dụng tức phong tiềm dương, thanh não, thông đốc giải kính, giống những các vị thuốc như Linh dương giác, Thiên ma, Cương tàm, Thạch quyết minh, Thảo quyết minh, Cúc hoa, Câu đằng, Kinh giới, Phòng phong, Đởm nam tinh, Cát căn, Bạc hà, Hà diệp, Bạch chỉ, Tang diệp, Cảo bản. Dùng bồ pháp có công hiệu thẳng dương ích khí, giống công hiệu của vị như Thăng ma, Sài hồ, Cảo bản, Hoàng kỳ, Nhân sâm. Dùng ngải cứu ôn dương cố thoát.
Dùng theo tại chỗ
Dùng tả pháp có tác dụng hoạt huyết thông lạc; phối ngải cứu có tác dụng ôn tán phong hàn, ôn thông tỵ khiếu giống như dược vật Cảo bản, Kinh giới, Phòng phong, Khương hoạt, Mạn kinh tử, Bạc hà, Tân di, Quy vĩ, Xích thược, Tế tân. Dùng kim tam lăng châm xuất huyết, tiết huyết tản nhiệt, hoạt huyết khử ứ. Dùng ngải cứu ôn dương tán tà.
Chủ trị
Đau đầu, huyễn vựng, cao huyết áp, trúng phong, quyết chứng, thoát chứng, giản chứng, điên chứng, thoát giang, tiết tả, tiện bí, long bể, đi liệu, sán khí, sa tử cung, sa dạ dày, mũi tắc, viêm mũi mạn tính, viêm mũi xoang, viêm mũi dị ứng.
Lâm sàng ứng dụng
Đau đầu
Ngoại cảm đầu thống
Phong hiệp hàn tà, trở kiệt lạc mạch, huyết uất ở trong thuộc phong hàn đầu thống, cứu Bách hội, Phong phủ, A thị huyệt có công hiệu sơ phong tán hàn, thông lạc chỉ thống.
Phong hiệp nhiệt tà, phong nhiệt thượng nhiễu, nhiều ảnh hưởng đến thanh không, thuộc phong nhiệt đầu thống, chọn tả Bách hội (hoặc chích máu), A thị, Hợp cốc có công hiệu sơ tán phong nhiệt, thông lạc chỉ thống; hoặc tả Bách hội, Khúc trì, Nội đình có công hiệu khư phong thanh nhiệt, giáng hỏa thanh não.
Phong hiệp thấp tà, mông muội thanh dương, khiến thanh dương bắt thăng, trọc âm bất giảng đây thuộc nội thấp đau đầu, chọn Bách hội, Phong phủ (hoặc Phong trì), Âm lăng tuyền, Túc tam lý có tác dụng khư phong tán tà, điều trung lợi thấp.
Nội thương đau đầu
Can dương đầu thống, chọn tả Bách hội (hoặc chích lạc mạch xuất huyết tiết huyết tản nhiệt). Hành gian, Phong trì bình can tiềm dương, tức phong chỉ thống; Hoặc bổ Phong trì gia bồ Phục lưu để bình can tức phong, sung âm tiêm dương, can hoả đau đầu chọn tả Bách hội (hoặc chích máu), Thái xung, Khâu khư đều phối thủ pháp thấu thiên lương, thanh tả can hỏa, tân nhiệt chỉ thống.
Khí hư đau đầu chọn bổ Hợp cốc, Túc tam lý để bổ trung ích khí, đồng thời phối bổ Bách hội để trợ thanh khí đi lên trên đầu, giống như “Bổ trung ích khí thang”. Thuộc trong hư hiệp thực thì Bách hội dùng tả pháp, với ý trong bố có tán.
Đau đầu thuộc khí huyết đều khuy, thì chọn dùng bổ Hợp cốc, Tam âm giao có tác dụng bổ ích đồng thời cả khí lẫn huyết, phối Bách hội trợ khí huyết đi lên đầu não. Tâm tỳ bất túc, tâm hư khiến cho sự vận hành của huyết dịch không được kiên cố, tỳ hư khiến cho sự sinh hóa của khí huyết không được vượng thịnh, khí huyết không thể đi lên để nuôi dưỡng não tủy dẫn đến đầu đau. Thì chọn Thần môn, Tam âm giao đồng thời bổ ích tâm tỳ, phối bổ Bách hội.
Thủy cốc bất hóa, tụ thấp sinh đàm, đàm trọc thượng nhiễu, kinh lạc trở trệ, thanh dương không được thư sướng mà phát huy tác dụng dẫn đến đàm trọc đầu đau, chọn tả Âm lăng tuyền, Phong long hỏa thấp khử đảm, phối tả Bách hội tuyên dương thông lạc, khư tà chỉ thống, ba huyệt phối ngủ, có công hiệu giống với “Gia vị nhị trần thang”, thuộc phong đàm chọn tả Bách bội, Phong long, Âm lăng tuyền, kiện tỳ hóa đảm, tức phong chỉ thống, công hiệu như “Bán hạ bạch truật thiên ma thang”.
Khi huyết ứ trệ, huyết hành không được thông sướng, mạch lạc trở trệ dẫn đến ứ huyết đau đầu, chọn tả Bách hội, A thị huyệt có công hiệu hoạt huyết hóa ứ, thông lạc chỉ thống.
Ngoài ra Lôi đầu phong cùng với đầu có cảm giác nóng đau như chưng chọn tả huyệt Bách hội, có công hiệu thanh dương tán nhiệt.
Thái dương, thiếu dương, quyết âm đầu thống
Đau sau đầu, đau liền vùng cổ gáy thuộc Thái dương kinh, chọn tả Bách hội (hưởng bên bị bệnh châm bình), Phong phủ, Hậu khê hoặc Côn lôn.
Đau bên đầu, đau liền đến tai thuộc Thiểu dương kinh, chọn tà Bách hội (hướng tên đau châm bình), Phong trì (bên bệnh), Khâu khư.
Đau đỉnh đầu, đau ra mắt thuộc đau đầu của kinh Quyết âm, chọn tả Bách hội, Thái xung, A thị huyệt. Do gây tê ngoài màng cứng gây đau đầu chọn tả Bách hội, Đại chùy, Phong phủ.
Huyễn vựng
“Chư phong trạo huyễn giai thuộc ư can" tức là “các chứng hoa mắt chóng mặt đều thuộc về can”, can kinh đi lên trên đỉnh đầu, hội với Đốc mạch. Chọn tả huyệt này tức phong tiềm dương thanh não.
Nguyên nhân can âm hao tổn, can hỏa thiên cang, phong dương thăng động, thượng nhiễu thanh không dẫn đến huyễn vựng. Phối tả Thái xung (phối thấu thiên lương), Phong trì bình can tiềm dương, tức phong thanh não; Hoặc phối với tả Hành gian, Khâu khư (phối thấu thiên lương, châm cảm theo đường kinh chạy lên đỉnh đầu), thanh can tả hỏa, tức phong tiểm dương.
Nguyên nhân do thận thủy bất túc, thủy không hãm dưỡng được mộc, can dương thiên cang, phong dương thượng nhiễu mà dẫn đến huyễn vựng. Phối tả Thái xung, bồ Phục lưu bình can tức phong, sung âm tiềm dương.
“Linh khu- Hải luận” có viết: “Não là bể của tủy, đi lên trên đỉnh đầu, đi xuống Phong phủ... tủy hải bất túc, thì não quay chuyển, tai ù, mắt không thể nhìn được, lười môi chỉ muốn nằm".
Thận tàng tinh sinh tủy, thận tinh khuy hư, không thể sinh tủy, tủy hải bất túc dẫn đến huyễn vựng. Chọn bổ thận du, Thái khê hoặc Phục lưu, bổ ích thân tinh, phối bổ Bách hội, có tác dụng trợ tinh huyết đi lên trên đầu não. Nếu muốn tả thu liễm phù dương, thì không thể bổ huyệt này.
Tâm tỳ khuy hư dẫn đến khí huyết không thể đi nên đầu não mà dẫn đến huyễn vựng. Chọn bổ Thần môn, Tam âm giao bổ ích tâm tỳ, phối với bổ Bách hội, để trợ khí huyết đi lên đầu não. Ba huyệt phối ngũ giống như hiệu quả của “Quy tỳ thang”.
Khí hư thì thanh dương không thăng, thanh khiếu không được đầy đủ cho nên huyễn vựng. Châm bổ Hợp cốc, Túc tam lý bổ trung ích khí, phối bố Bách hội có tác dụng bổ ích thăng dương. Thuộc hư khí thượng nghịch, không thể chọn dùng huyệt này, càng không nên dùng bổ pháp.
Thuộc đàm trọc trung trở chọn tả Bách hội, Âm lăng tuyền, Phong long, khư thấp hóa đàm, tả tức phong; thuộc phong đảm thượng nhiễu thì tả Bách hội, Phong long, bổ Âm lăng tuyền, kiện tỳ khư thấp, hóa đàm tức phong, có hiệu quả giống như “Bán hạ bạch truật thiên ma thang”, thuộc đàm uất hóa hỏa, đàm hỏa thượng nhiễu dẫn đến, châm tả Bách hội, Phong long, Nội đình hai huyệt sau đều phối ngũ với thấu thiên lương, cộng lại có công hiệu thanh giáng đàm hỏa, tức phong thanh não.
Phàm thuộc bản hư tiêu thực hoặc thượng thịnh hạ hư mà huyền vựng, không thể phối với bản huyệt; nếu bổ nhầm dẫn đến tiêu càng thực mà khí càng thượng nghịch, huyễn vựng càng nặng.
Trúng phong
Trúng phong tạng phủ
Dương bế châm tả Bách hội, Phong long, Phong trì, Dũng tuyền, tức phong khoát đàm, tuyên khiếu tỉnh chí hoặc châm tả Bách hội, Hợp cốc, Dũng tuyền thanh nhiệt khởi bế, khai khiếu tỉnh chí hoặc phối thất bảo đan để điều trị.
Âm bế châm tả Dũng tuyền, châm thích hoặc niệm thích Trung xung, ngải cứu Bách hội, ôn dương khai khiếu tỉnh chí hoặc dùng “Tô hợp hương hoàn” cho một ít nước sinh khương mà cho bệnh nhân uống.
Thoát chứng: Nguyên nhân do nguyên khí suy vi, âm dương lý quyết dẫn đến bệnh. Châm Bách hội, Quan nguyên, Khí hải hoặc Hợp cốc, ích khí hồi dương cố thoát.
Trúng phong kinh lạc
Nguyên nhân do phong dương nội động, thượng nhiễu thanh không, phong dương hiệp đàm trúng vào kinh lạc gây nên bệnh trúng phong. Chứng thấy huyễn vựng đầu đau, mắt mờ tối mà tai ù, xuất hiện lưỡi cũng khó nói, miệng mắt méo lệch hoặc chân tay nặng nề, bán thân bất toại, mạch tượng huyền hoạt mà sác, chất lưỡi đỏ. Châm tả Bách hội (tức phong tiềm dương), Thái xung, Phong long, bình can tiềm dương, tức phong khư đàm. Âm dương bất túc, thủy không hàm dưỡng được mộc, can dương thiên cang, bố Phục lưu, tư thận thủy hàm dưỡng can mộc.
Phương trên là chọn bên bị bệnh mà châm, đồng thời có thể châm luân phiên 2 bên. Như bán thân bất toại, thì chọn tả huyệt bên bị bệnh và thay nhau sử dụng. Lưỡi cứng khó nói, phối tả Liêm tuyền; trong hầu có đàm gia tả Thiên đột; Khẩu nhãn oa tà, có thể chọn huyệt tại chỗ bên bệnh thay nhau sử dụng, cộng lại có tác dụng tức phong khư đàm thông kinh hoạt lạc.
Nếu như có triệu chứng báo hiệu trúng phong, thì khi châm thích đặc biệt chú trọng huyết áp, đề phòng huyết áp quá cao, để khi châm thích tránh bị xuất huyết não trùng hợp.
Quyết chứng
Bách hội dùng để thăng dương ích khí, thanh não tỉnh chí.
Nguyên khí bẩm tổ đã hư, mỗi lần do quá lo sợ hoặc lao động quá nhiều, nhất thời khí cơ muộn loạn, trung khí hạ hãm, thanh dương không phát huy được chức năng, đột nhiên phát khí quyết (Hư chứng). Châm bổ Bách hội (phối ngải cứu), Quan nguyên, Khí hải hoặc Hợp cốc hồi dương ích khí, hoặc giả bổ Thần môn cường tâm tô quyết.
Can dương bẩm tố vượng, lại gặp do giận giữ thương can, can khí thượng nghịch, đi lên làm cho thần minh bị rối loạn, thanh khiếu bế tắc, đột nhiên phát huyết quyết (Thực chứng). Châm tà Bách hội, Tam âm giao, Dũng tuyền, Giản sử lý khí hoạt huyết, tuyên khiếu tỉnh chí.
Nhân do mất máu quá nhiều, dẫn đến khí theo huyết mà mất, huyết hư không thể đi lên thanh khiếu được, đột nhiên mà phát huyết quyết (Hư chứng). Huyết thoát đầu tiên nên ích khí, cho nên cấp bổ Hợp cốc, Tam âm giao để bổ ích khí huyết, phối bổ Bách hội, khiến huyết theo khí thăng, thượng thừa thanh khiếu.
Tiết tả, tiện bí, long bế, di niệu, sán khí, sa tử cung, sa dạ dày
Các bệnh trên, phàm nguyên nhân do trung khí bất túc, khí hư hạ hãm, mất sự thăng đề hoặc mất sự cố nhiếp, đều có thể châm bổ Bách hội, Hợp cốc, Túc tam lý bổ trung ích khí, thăng dương cử hãm. Căn cứ vào vị trí của bệnh, cùng với bệnh tình cụ thể không giống nhau, có thể phối với các huyệt vị liên quan.
Tiết tả tiện bí thì đầu tiên nên bổ Thiên khu, Đại trường du, Thượng cự hư thay nhau sử dụng.
Di niệu long bế có thể gia thêm bổ Trung cực, thúc ước bàng quang, hóa khí hành thủy.
Sán khi gia tả Thái xung hoặc Đai đôn, tá sơ can lý khí.
Sa tử cung có thể gia thêm bổ Thận du, Thái khê bổ thận mà liên quan đến hệ thống tử cung hoặc hai phương thay nhau sử dụng hoặc châm thích huyệt tử cung thay nhau sử dụng; Hoặc chọn châm thích huyệt Duy bào (Châm ngang đến 3-4 thốn, sau đó lại hành châm, đến khi vùng âm bộ có cảm giác co rút, sau đó lại vẻ kim 1-2 phút thì rút kim) thay nhau sử dụng.
Mũi tắc
Bệnh này là mũi tắc tiếng nặng, chảy nước mũi trong hoặc nước mũi đục, hô hấp khó khăn, khứu giác giảm, có lúc hắt hơi, nặng thì không ngửi thấy mùi, tinh thần mờ mịt làm chủ. Đốc mạch đi lên đỉnh đầu, đi lên đến trán đến mũi. Chọn huyệt này, hưởng gốc mũi, châm ngang, khiến châm cảm đến vùng mũi thì tốt, khai thông tỵ khiếu.
Nguyên nhân do phong hàn làm tổn thương phế, phế khí bất lợi, dẫn mũi bắt thông khiến tắc trệ không được thông sướng, cứu Bách hội (ôn thông ty khiếu), Thượng tinh, tả Hợp cốc, Liệt khuyết, khư phong tán hàn, tuyên thông tỵ khiếu. Mới sinh hoặc dưới 5 tuổi, nhân cảm mạo mũi tắc không thông, tự chế điếu ngải loại nhỏ cứu huyệt này, mỗi ngày buổi sáng cứu 10 phút có tác dụng ôn thông tỵ khiếu.
Nguyên nhân do phong nhiệt xâm tập, phế khí bất lợi, dẫn đến tỵ khiếu không được tuyên thông, khiến trở ngại không được thông sướng, chọn tà Bách hội tuyên thông tỵ khiếu), Hợp cốc, Nghinh hương, sơ tán phong nhiệt tuyên thông tỵ khiếu.
Nguyên nhân do vệ khi không được kiên cố, phong hàn thừa cơ xâm nhập tỵ khiếu bất tuyên, ngoại cảm phong hàn sẽ phát, mũi tắc bất thông, hô bất lợi, hắt hơi theo cơn theo trận ở trẻ con. Dùng điều ngải cứu Bách hội 10-15 phút, mỗi ngày 1-2 lần, có tác dụng ôn dương tán tà, tuyên thông tỵ khiếu.
Viêm mũi dị ứng
Nguyên nhân do phế khí bất túc, vệ ngoại không kiên cố, phong hàn thiên hư xâm tập mà dẫn đến bệnh. Cứu Bách hội, Thượng tinh, tả Nghinh hương sơ tán phong hàn, ôn thông tỵ khiếu, cùng với chọn bổ Đại chùy, Hợp cốc ích khí cố biểu, thay nhau sử dụng. Hoặc tả cứu Bách hội, Phong trì, Thượng tinh, sơ phong tán hàn, ôn thông tỵ khiếu, cùng với chọn bổ Thái uyên, Phế du có tác dụng công hiệu bổ phế cố biểu, thay nhau sử dụng.
BS. Đỗ Nguyệt Thanh (Thọ Xuân Đường)