CÁC VỊ THUỐC NAM ÍCH CHO BỆNH LOÃNG XƯƠNG
Trong số này, TS Lương y Phùng Tuấn Giang - Truyền nhân đời thứ 16 của Thọ Xuân Đường - Nhà thuốc gia truyền nhiều đời nhất Việt Nam sẽ tư vấn các vị thuốc Nam ích dễ tìm kiếm, dễ thực hiện giúp trị chứng Loãng xương...
Cốt toái bổ :
Là vị thuốc Nam dễ tìm, thường mọc ở các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta. Cốt toái bổ còn gọi là Hầu khương, Hồ tôn khương,... thuộc họ Dương xỉ (Polypodiaceae). Theo y học cổ truyền, cốt toái bổ có vị đắng, tính ấm; quy kinh can, thận; có tác dụng bổ thận, mạnh gân xương, hoạt huyết, chỉ huyết. Vị thuốc có tên Bổ cốt toái vì nó có tác dụng làm liên xương bị dập nát, gãy.
Cách dùng: Thuốc sắc: Dùng đơn độc hoặc kết hợp với các vị thuốc khác. Lượng dùng 10 - 15 g sắc uống.
Dùng ngoài: Cốt toái bổ, Huyết kiệt, Bằng sa, Đương quy, Nhũ hương, Một dược, Tục đoạn, Đồng tự nhiên, Đại hoàng, Địa miết trùng, lượng bằng nhau, tán bột trộn Vaselin bôi vùng đau (bài thuốc tiếp cốt tán) có tác dụng làm xương liền nhanh.
Dây đau xương:
Tên cây đã nói lên công dụng của nó. Là loại cây thuốc được dùng phổ biến trong các bài
thuốc Nam trị bệnh về xương khớp. Còn có tên khác là Khoan cân đằng, Tục cốt đằng,... Dây đau xương có vị đắng, tính hàn, quy kinh Can, Thận. Tác dụng: Thanh nhiệt lợi thấp, hoạt lạc khu phong chỉ thống. Thường dùng để chữa đau nhức xương do loãng xương, đau nhức xương khớp do thoái hóa, do chấn thương.
Cách dùng: Dùng tươi: Giã nát cả lá và cành dây đau xương, cho thêm chút rượu trắng rồi vắt nước cốt uống, bã đem chưng nóng sau đó đắp vào vùng đau sẽ rất hiệu quả. Không dùng cho vết thương hở.
Ngâm rượu: Lấy dây đau xương thái lát, phơi khô ngâm trong rượu trắng, sau 10 ngày có thể dùng được (1 kg dược liệu ngâm với 4 lít rượu). Mỗi ngày dùng 20ml rượu, có thể dùng rượu này để xoa bóp giúp giảm đau nhức.
Thuốc sắc: Dùng đơn độc hoặc kết hợp với các vị thuốc khác. Lượng dùng 10 - 15 g sắc uống.
Cẩu tích:
Là thân rễ của cây lông Cu li phơi khô. Đây là vị thuốc Nam phổ biến ở nước ta, mọc ở nơi đất ẩm gần bờ khe suối, rùng núi. Cẩu tích có vị đắng, ngọt; tính ôn; quy kinh can, thận. Có tác dụng bổ can thận, mạnh gân xương, trừ phong thấp. Cẩu tích thường được phối hợp với các vị thuốc khác để điều trị các bệnh về xương khớp.
Cao ban long:
Còn được gọi là Lộc giác giao, nấu từ sừng già của hươu, nai. Theo y học cổ truyền, Cao ban long có vị ngọt, mặn, tính ấm, không độc; quy kinh can, thận. Có tác dụng ích tinh khí, hoạt huyết, cầm máu, mạnh gân xương. Đây là vị thuốc quý thường được dùng cho người suy nhược, đặc biệt là NCT gầy yếu, loãng xương, đau nhức xương khớp.
Cách dùng: Mỗi ngày 5- 15g, cắt thành từng miếng mỏng, có thể sử dụng bằng cách ngậm dần cho tan trong miệng, ăn với cháo nóng, hấp cách thủy với mật ong hoặc dùng chung các vị thuốc khác.
Rễ cỏ xước:
Ở nước ta, cỏ xước mọc khắp nơi ven đường, trên nương rẫy... nơi có ánh sáng và đất màu mỡ. Rễ của cỏ xước được dùng làm thuốc, còn gọi là Ngưu tất nam, Thổ Ngưu tất.
Cỏ xước có vị chua, đắng, tính bình; quy kinh can, thận, có tác dụng bổ can thận, mạnh gân xương, tiêu viêm, lợi tiểu, hành khí hoạt huyết. Rễ cỏ xước được dùng phổ biến trong các bài thuôc Nam trị bệnh về thận và xương khớp.
Thường kết hợp với các vị thuốc khác dùng dưới dạng thuốc hoàn, tán hoặc thuốc sắc (mỗi ngày dùng từ 10 - 15g)
(Đón đọc: Bệnh Ung thư và cách điều trị theo phương pháp Nam y)
Nguồn: Đăng trên báo Người Cao Tuổi số ra ngày 5/1/2018