TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO THEO Y HỌC CỔ TRUYỀN
Tai biến mạch máu não là một hội chứng bệnh được mô tả trong phạm vi chứng trúng phong của y học cổ truyền với các triệu chứng đột nhiên ngã, bất tỉnh nhân sự, hoặc méo miệng, nói khó, sùi bọt mép, bán thân bất toại, tay chân cứng đờ , không co duỗi được...
1. Nguyên nhân gây bệnh
Bệnh phát sinh nguyên nhân chủ yếu do rối loạn chức năng tạng phủ âm dương, khí huyết thăng giáng thất thường, kết hợp với thất tình, ẩm thực thất điều,lao động quá sức , phòng dục quá độ gây nên:
• Thất tình (Rối loạn tình chí)
Can liên quan đến tình chí là nộ (cáu giận), can chủ thăng, cáu giận làm can khí thượng nghịch, can dương bạo cang, huyết thuận theo khí nghịch, đưa lên trên gây nên bệnh. Bẩm tố âm hư, thủy không hàm mộc, khi gặp cáu giận làm cho dương thăng không khống chế được, huyết khí thượng nghịch gây nên trúng phong.
• Ẩm thực thất điều
Ăn nhiều chất béo ngọt cay gây tổn thương tỳ vị, rối loạn chức năng kiện vận nên tân dịch nội đình, tụ thấp sinh đàm, đàm uất hóa nhiệt, nhiệt uất làm động phong, phong kết hợp với đàm hỏa đưa lên trên gây nên bệnh
• Lao động quá sức làm âm huyết hao thoát, hư dương sinh nhiệt hóa phong.
• Phòng dục quá độ (sinh hoạt tình duc quá độ)
Làm thận tinh hao tổn, thủy hao phía dưới, hỏa vượng phía trên gây nên bệnh.
• Đàm ẩm huyết ứ
Rối loạn chức năng tạng phủ khí huyết hình thành các sản phẩm bệnh lý. Đàm ẩm và huyết ứ lại là nhân tố mới gây nên bệnh. Tỳ không kiện vận, tụ thấp sinh đàm, phế không tuyên giáng, rối loạn thông điều thủy đạo, tân dịch đình tù thành đàm. Thận dương hư suy, không trưng đốt tân dịch hoặc tam tiêu rối loạn khí hóa làm tụ thủy thành đàm. Sau khi đàm ứ hình thành có thể uất hóa nhiệt, có thể thuận theo khí thượng nghịch, kết hợp với phong gây nên bệnh.
• Nguyên nhân gây trúng phong theo các y gia cổ
Hải thượng Lãn ông cho là “thỉnh thoảng mới có do ngoại phong, còn 70 – 80% do âm hư, 10 – 20% do dương hư, vì hư yếu sinh phong”. Diệp Thiên Sỹ cho rằng bệnh là do can dương hóa phong gây nên. Lưu Hà Gian cho rằng ''tâm hỏa bạo thậm'' gây nên. Chu Đan Khê cho rằng'' thấp sinh đàm, đàm sinh nhiệt, nhiệt sinh phong''.
2. Cơ chế bệnh sinh
• Can dương vọng động, khích nhiễu nội phong thượng cang: can là tạng dương, chủ thăng chủ động. Can khí dễ bị thất tiết mà thượng cang hoặc nghịch. Cáu giận quá mức có thể gây nên can dương vọng động, nội phong bị kích nhiễu mà thượng cang. Can chủ tàng huyết, rối loạn chức năng làm huyết thuận theo khí nghịch, trực trúng phạm não, trệ cách thanh khiếu gây nên bệnh.
• Tình chí hư suy, hư phong nội chuyển: nguyên nhân khởi phát do thận nguyên bất cố, chân khí hao tán, nguyên khí hư suy; hoặc thận âm bất túc, thủy không hàm mộc, tâm huyết hao tổn, huyết không dưỡng can, âm dương rối loạn gây nên hư phong nội chuyển, khí huyết thượng nghịch, dương khí phù vượt bế trệ não khiếu, rối loạn thần minh, tình chí thất điều mà gây nội phong nhiễu loạn.
• Ngũ chí hóa hỏa, phong hỏa tương kiêm: ngũ chí quá cực làm rối loạn chức năng của tạng phủ khí huyết, làm cho khí cơ uất kết, theo dương hóa nhiệt, nhiệt cực làm hóa hỏa sinh phong, gây nên tâm hỏa bạo thịnh, can dương bạo cang, phong hỏa tương kiêm, hỏa thịnh thủy suy, âm hư không khống chế dương, khí huyết phong hỏa đưa lên trên, tâm thần rối loạn gây nên bệnh.
• Đàm trọc nội ủng, hóa nhiệt sinh phong: rối loạn kiện vận của tỳ, tụ thấp sinh đàm, đàm trọc nội ủng, đàm uất lâu hóa nhiệt, động phong lên trên, huyết thuận khí nghịch gây nên bệnh. Hoặc do bẩm tố can vượng, dương nhiệt thiên thịnh, hun đốt tân dịch thành đàm làm đàm hỏa nội sinh, hỏa động đàm thăng, can phong hiệp đàm hỏa đưa lên trên bưng bít thanh khiếu, hoành nghịch kinh lạc, thần minh vô chủ làm đột ngột hôn mê gây nên bệnh.
• Huyết ứ nội trệ, tân huyết không sinh: huyết lý kinh là huyết ứ, do xuất huyết não làm huyết ứ trệ ở não tủy, rối loạn phủ nguyên thần; hơn nữa, tân huyết không sinh, hư phong nội động đều là nguyên nhân bệnh sinh của bệnh.
• Chính khí hư suy, âm dương kiện vong: cùng với tiến triển của bệnh, can phong đàm hỏa tích thịnh, chính khí dần dần hư thoát cuối cùng làm cho âm kiện dương vong, âm dương ly tán gây nên bệnh.
• Khi phát bệnh thì xu thế của phong, hỏa, đàm trọc rất mạnh và nhanh, dương khí bị tà bế, nếu nặng thì gây chứng thoát không điều trị kịp thời thường bị tử vong.
• Kết hợp với tuổi cao khí suy, tình chí thất điều, thể trạng béo bệu, đàm trọc thấp thịnh, ăn nhiều đồ béo ngọt, uống bia rượu nhiều... là các nhân tố thuận lợi gây nên bệnh.
3. Các thể bệnh và pháp điều trị
Trúng phong được chia làm hai thể:
• Trúng phong kinh lạc
Người bệnh vẫn tỉnh táo đột nhiên nửa người không vận động được theo ý muốn (bán thân bất toại) hoặc một nửa mặt miệng, mắt méo lệch (khẩu nhãn oa tà).
• Trúng phong tạng phủ
Có 2 chứng:
- Chứng bế: Đột nhiên người bệnh ngã lăn hôn mê bất tỉnh, hàm răng cắn chặt, cấm khẩu, không há miệng được, hai tay nắm chặt, đại tiểu tiện bí, thân người và tay chân cứng.
- Chứng thoát: Người bệnh đột nhiên ngã lăn mê man bất tỉnh, mắt nhắm, miệng há, mũi thở nhẹ, đại tiểu tiện không tự chủ, tay chân lạnh, bàn tay xoè ra, ra nhiều mồ hôi, thân mình và tay chân mềm nhũn, lưỡi liệt không cử động. Mạch tế, nhược hoặc vi.
Bảng phân loại trúng phong theo các thể lâm sàng và phân loại điều trị
Bác sĩ: Minh Nguyễn (Thọ Xuân Đường)