THẢO DƯỢC CÂY CỨT NGỰA ĐIỀU ÍT AI BIẾT
Theo đông y, cây Cứt ngựa (Teucrium viscidum Blume.) vị đắng, cay, tính mát, có tác cầm máu, tiêu phù, giải độc, giảm đau. Thường dùng trị: Nôn ra máu, chảy máu cam, ỉa phân đen; Đau bụng kinh; Chó dại cắn; Đụng giập, ổ tụ máu, vết thương chảy máu, cụm nhọt, rắn cắn, đau thấp khớp...
1. Đặc điểm nông sinh học
Cây thảo, mọc bò, sống lâu năm, gốc có khi hóa gỗ. Thân vuông, cao 30 – 50cm, phân nhánh nhiều hay ít. Lá mọc đối, hình trứng, dài 3 – 10cm, rộng 1,5 – 4,5 cm, gốc bằng hơi hình tim, đầu thuôn nhọn, mép khái răng; cuống lá ngắn.
Cụm hoa mọc ở ngọn thân và kẽ lá thành chùm đơn, ở mỗi mấu có 2 hoa mọc đối diện; lá bắc hình mũi mác, hoa màu hồng; đài 5 thùy, hình ống, có lông : tràng hợp thành môi có 5 cánh, phía dưới có ống ngắn, 4 nhị trội, bao phần hình thận; bầu vòi xẻ đôi. Quả bế tư, hình trái xoan hơi có vẫn mạng. Mùa hoa quả từ tháng 5 đến tháng 7.
Chi Teucrium có 3 loài Việt Nam Vũ Xuân Phương , 2001 . Trong đó có 2 loại được dùng làm thuốc là loại trên cây tiêu kỳ lông ( T - quadrifarium Buch . - Ham .) .
Cây cứt ngựa phân bố chủ yếu ở các tỉnh miền núi phía Bắc, gồm Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Sơn La, Vĩnh Phúc (Tam Đảo), Hoà Bình, Hà Tây (Ba Vì), Ninh Bình, Nghệ An, Đà Nẵng (Bà Nà). Trên thế giới, cây có ở Trung Quốc, Lào, Ấn Độ, Mianma và Indonesia .
Cây cứt ngựa là cây ưa sáng, thường mọc riêng lẻ hoặc thành đám nhỏ nương rẫy hay ven rừng ẩm. Độ cao phân bố từ vài trăm đến 1000m. Cây sinh trưởng mạnh từ giữa mùa xuân đến hết hè. Đến mùa đông sau khi quả đã già, cây có hiện tượng bán tàn lụi, tái sinh tự nhiên tốt tử hạt và từ các phần thân hay gốc còn lại sau khi cắt.
2. Tác dụng của cây cứt ngựa
Cao chiết nước dược liệu cứt ngựa phơi khô trong thử nghiệm in vitro bằng phương pháp khuếch tán trên đĩa, đã thể hiện hoạt tính ức chế trên một số chủng vi khuẩn gây bệnh.
Cây cứt ngựa được dùng chữa vết thương chảy máu, thổ huyết (nôn ra máu), nục huyết (chảy máu cam), đại tiện phân đen, đinh nhọt, sưng lở, đau nhức khớp, đau bụng kinh, rắn cắn. Ngày dùng 20 - 40g sắc uống. Dùng ngoài, lấy cây tươi giã đắp trị mụn lở, vết thương và rắn cắn. Trong y học dân gian Trung Quốc cây cứt ngựa được dùng trị bệnh mủ da.
• Bài thuốc có cây cứt ngựa:
- Chữa đòn ngã tổn thương: Cây cứt ngựa, húng quế, rau má lông, nghệ đen mỗi vị 9g , sắc uống.
- Chữa phế khí thũng nôn ra máu, chảy máu cam: Cây cứt ngựa tươi 30 - 60g, đường đỏ 30g, đun sôi uống.
Với cái tên lạ, ít ai biết loài cây cứt ngựa cũng như tác dụng chữa bệnh của dược liệu này.
Mai Thanh (Thọ Xuân Đường)
Để được tư vấn về sức khỏe và quy trình khám chữa bệnh tại Nhà thuốc dong y Thọ Xuân Đường, quý vị vui lòng liên hệ:
Hotline: 0943 406 995 hoặc 0937 63 8282