TÌM HIỂU VỊ THUỐC TỪ CÂY GỪNG DẠI
Gừng dại là loại thảo mộc sống lâu năm với các thân rễ bò ngang hay tạo củ. Đây là một loại cây họ Gừng Zingiberaceae có công dụng chữa bệnh.Loài cây này còn có tên gọi là Zorong, được thu hái thân rễ, đem về rửa sạch, thái mỏng phơi hay sấy khô làm thuốc. Cùng tìm hiểu cây thuốc này nhé!
1. Mô tả
- Tên gọi: Gừng dại, Gừng tía
- Tên khoa học: Zingiber eberhardtii Gagnep. Họ: Gừng Zingiberaceae
- Đặc điểm: Cây thảo, cao 2m, có thân rễ lớn hơn củ gừng, màu lục vàng , mùi nồng tựa hạt tiêu. Lá không cuống, hình thuôn mũi mác, gốc lá tròn, đầu thóp nhọn, mặt trên nhẵn, mặt dưới hơi có lông như bột. Phiến lá dài tới 40cm, rộng 3,5cm, lưỡi bẹ dạng vẩy mỏng, lá có khía, có lông. ánh hoa có lông, dài trung bình 15-25cm vẩy có lông ở gốc, hình mũi mác, không lợp lên nhau, cụm hoa hình thoi, nhiều hoa, dài khoảng 11cm, rộng 4-6cm, lá bắc lợp lên nhau, mép màu tía, hoa mau tàn, tràng có ống không vượt quá các lá bắc, thuỳ hẹp dài. Bao phấn ngắn hơn cánh môi, trung đới dài và mềm yếu. Cánh môi hình tròn chẻ sâu, màu vàng nhạt, có thuỳ bên do nhị ép tạo thành. Bầu có lông. Mùa hoa: tháng 7-8, quả: tháng 7-9
2. Dược liệu Gừng dại
- Bộ phận dùng: Thân rễ.
- Thu hái, bào chế: Thu hoạch thân rễ quanh năm, đem về rửa sạch, thái mỏng phơi hay sấy khô làm thuốc.
- Tính vị: Vị cay, đắng và khó chịu, tính ấm.
3. Thành phần hóa học:
- Năm 1979 trạm nghiên cứu dược liệu Nghĩa Bình đã cất từ thân rễ tươi của gừng dại được 0,5-0,8% tinh dầu. từ thân rễ quy ra khô kiệt được 4-5% tinh dầu. tinh dầu màu vàng nhạt, sánh, mùi thơm. Để ở nhiệt độ phòng thí nghiệm sau 5 ngày tinh dầu có khoảng 50-70% tinh thể, nếu để tinh dầu ngay vào tủ lạnh thì chỉ 2 giờ sau kết tinh. Tinh thể màu trắng đục, mùi nồng, vị nhạt, không tan trong nước lạnh, tan trong nước ấm rồi nổi lên mặt nước, để lạnh sẽ kết tinh trở lại, tan hoàn toàn trong dung môi hữu cơ.
- Theo M.Lawrence J.W. Hogg và St. J Terhune (Riechstoffe, Aromen, Korper-flegenmittel 20, 261, 1970-Miltitzer Berrichte, 1971, 48) tinh dầu cất từ thân rễ gừng dại ở Thái Lan có tỷ trọng D20 0,894, αD20 33036’, µD20 1,489. Bằng sắc ký khí và phổ hồng ngoại đã xác định được 2,5% αpinen, 0,1% camphen, 2,1% βpinen, 33,4% sabinen, 1,6% myrxen, 4,8% αtecpinen, 0,7% limonene, 1,1% 1-8 xineol, 9% γtecpinen, 2,1% p-cymol, 2,1% tecpinolen, 0,6% trans-sabinenhydrat, 0,5% trans-p-menthen-2-33,3% tepinenol (4), 0,5% cis-piperitol, 4,3% một αtecinylaxetat, 0,2% cis-piperitol, 4,3% một thành phần chưa xác định được.
- Năm 1971, T.E Csey, J.Dougan W.S. Matthews và J. Nabney (Tropical Sc 13, 199 Miltitzer Berichte 1972, 60) nghiên cứu tinh dầu cất từ thân rễ gừng dại Thái Lan thu được 0,55% tinh dầu màu vàng nhạt, mùi thơm hơi cây, với tỷ trọng d20 0,895, αD203302, η201,489, tan trong 4,6 phần cồn 800, với 36,5% ancol toàn phần, (C10H18O) trong đó có khoảng 35% tecpinenol –(4). Ngoài ra còn xác định một số myrxen, αtecpinen, limonene, tecpinen, P-cymol và tecpinolen và một số thành phần chưa xác định.
- Năm 1975 (Internal Flavours 6, 136 1936-Miltizer Beriche 1975, 70) D.M. Baker và J.Nabney đã tách được từ tinh dầu gừng dại Thái Lan chất 1-(3,4-dimetoxyphenyl) butadiene (2,4). Chất này đã được T.E Casey J Dougan W.S Matthews và J. Nabney xác định (Vgl, Tropical Sc. 13, 199 1971).
4. Công dụng, chủ trị
- Làm thông hơi, điều kinh hơi nhuận tràng, cầm lỵ, làm săn da.
- Rượu ngâm gừng dại được sử dụng làm thuốc xoa bóp cho phụ nữ sau sinh.
- Thân rễ gừng lại dại cũng được dùng để điều trị bệnh thấp khớp và đụng giập.
- Ở một số nước như: Malaixia, gừng dại được dùng để làm thuốc trị giun cho trẻ em và nước sắc của củ được dùng cho phụ nữ sau khi sinh đẻ. Còn ở Thái Lan thì Gừng lại được sử dụng với nhiều Công dụng, chỉ định và phối hợp, còn dùng làm thuốc tiêu viêm chữa bong gân và đau cơ vết thương chảy máu.
- Loài cây này chủ yếu được sử dụng ở vùng miền Nam nước ta, chủ yếu là người dân dân tộc Bana, Bình Đình, họ dùng cây này để chữa lỵ mãn tính.