Huyệt Trung Quản là một huyệt vị quan trọng trong vùng thượng vị, thường được sử dụng trong điều trị các bệnh lý tiêu hóa như đau dạ dày, đầy hơi, buồn nôn. Nhờ khả năng điều hòa khí cơ vùng trung tiêu và kiện tỳ vị, huyệt này được ứng dụng rộng rãi trong cả châm cứu lẫn bấm huyệt hỗ trợ tiêu hóa và giảm đau hiệu quả.
Tên huyệt - tên kinh
Huyệt Trung quản - Nhâm mạch
Người xưa cho rằng từ ức (chấn thuỷ) đến lỗ rốn là ống (Quản) dạ dày, huyệt ở giữa (trung) đường nối này, vì vậy gọi là Trung Quản.
Tên khác: Thái Thương, Thượng Ký, Trung Hoãn, Trung Oản, Trung Uyển, Vị Quản.
Viết tắt theo tiếng Anh: CV12.
Vị trí
Trên bụng trên, phía trên trung tâm rốn 4 thốn, trên đường trắng giữa.
Huyệt nằm tại trung điểm của đường nối khớp mũi ức với rốn.
Tác dụng chữa bệnh
Tại chỗ:
- Viêm loét dạ dày, sa dạ dày cấp và mãn tính.
- Tắc ruột cấp tính, đau dạ dày, nôn mửa, chướng bụng khó tiêu.
Toàn thân:
- Tiêu chảy, táo bón, tiêu hóa kém.
- Huyết áp cao.
- Suy nhược thần kinh, bệnh tâm thần.
- Điều hòa tỳ và vị, kiện vị, kiện tỳ.
- Hạ khí, hòa khí, giảm đau.
Giải phẫu
- Huyệt ở trên đường trắng, ở dưới đường trắng là mạc ngang, phúc mạc.
- Sau thành bụng là phần ngang của dạ dày.
- Da vùng huyệt chi phối bởi tiết đoạn thần kinh D8. Dưới huyệt có nhánh của động mạch thượng vị trên.
Thao tác châm
Châm thẳng, sâu 1-2 thốn, có thể hướng mũi kim 4 huyệt quanh gần đó bằng cách châm xiên dưới thịt. Khi châm bụng trên có cảm giác căng tức hoặc dạ dày cảm giác rụt lại.
Cứu: 3-7 mồi.
Ôn cứu: 10-20 phút.
Chú ý
Dưới là dạ dày, tạng tụy, động mạch chủ bụng, không nên châm sâu quá, người ốm cần thận trọng. Nếu bệnh nhân có gan to, không nên châm xiên quanh 4 phía.
Phối hợp huyệt
- Phối hợp với huyệt Âm Đô trị nấc cụt.
- Phối hợp với huyệt Ấn Đường, huyệt Chương Môn, huyệt Quan Nguyên, huyệt Túc Tam Lý trị kinh phong mạn.
- Phối hợp với huyệt Chí Dương, huyệt Đởm Du, huyệt trị vàng da.
- Phối hợp với huyệt Công Tôn, huyệt Nội Quan, huyệt Túc Tam Lý trị nôn mửa.
- Phối hợp với huyệt Đản Trung, huyệt Khí Hải trị nôn mửa, ho.
- Phối hợp với huyệt Dương Trì [đều cứu] trị tử cung lệch (ra trước, sau; qua phải, trái), thoát vị.
- Phối hợp với huyệt Dương Trì, huyệt Thượng Quản trị nôn mửa lúc có thai.
- Phối hợp với huyệt Khí Hải trị tiêu ra máu.
- Phối hợp với huyệt Khí Hải, huyệt Nội Quan, huyệt Thiên Xu trị ruột tắc cấp tính.
- Phối hợp với huyệt Khí Hải, huyệt Thần Khuyết trị trúng lạnh.
- Phối hợp với huyệt Lương Khâu, huyệt Nội Quan trị đau dạ dày.
- Phối hợp với huyệt Lương Môn, huyệt Nội Quan, huyệt Thiên Xu, huyệt Túc Tam Lý trị dạ dày xuất huyết.
- Phối hợp với huyệt Phế Du, huyệt Túc Tam Lý trị ho ra máu.
- Phối hợp với huyệt Quan Nguyên, huyệt Thiên Xu, huyệt Túc Tam Lý trị bụng đau.
- Phối hợp với huyệt Tam Âm Giao trị ăn không tiêu.
- Phối hợp với huyệt Thiên Xu trị thổ tả.
- Phối hợp với huyệt Thiên Xu, huyệt Trung Cực trị tiêu chảy không cầm.
- Phối hợp với huyệt Thiên Xu, huyệt Túc Tam Lý trị lỵ.
- Phối hợp với huyệt Thừa Mãn trị bụng đau xuyên ra vai.
- Phối hợp với huyệt Thượng Cự Hư, huyệt Kỳ Môn trị suyễn cấp.
- Phối hợp với huyệt Túc Tam Lý trị đờm.
- Phối hợp với huyệt Túc Tam Lý, Âm Lăng Tuyền trị hoàng đản, tay chân không có sức.
- Phối hợp với huyệt Túc Tam Lý trị no hơi, thực đạo co thắt.
- Phối hợp với huyệt Túc Tam Lý, huyệt Vị Thương trị sa dạ dày.
Nghiên cứu hiệu quả của điện châm tại các huyệt đạo khác nhau trong chứng điều trị chứng trào ngược dạ dày: Túc tam lý (ST36) kết hợp với Trung quản (CV12) so với Trung quản (CV12) đơn thuần.
Mục tiêu: Đánh giá tác dụng của điện châm đối với việc làm rỗng dạ dày nhanh chóng bằng cách so sánh hiệu quả của điện châm tại cả huyệt Túc tam lý (ST36) và Trung quản (CV12) so với điện châm riêng tại Trung quản (CV12).
Phương pháp: 65 bệnh nhân được chia ngẫu nhiên thành hai nhóm; 33 bệnh nhân trong nhóm huyệt Hợp - Mộ được châm điện tại cả Túc tam lý (ST36) và Trung quản (CV12), trong khi 32 bệnh nhân trong nhóm huyệt đơn chỉ được châm điện tại Trung quản (CV12). Cả hai nhóm đều được điều trị một lần mỗi ngày trong 30 phút, năm lần một tuần trong 3 tuần. Trước và sau liệu trình điều trị kéo dài 3 tuần, bệnh nhân được chụp cắt lớp dạ dày và được đánh giá bằng thang triệu chứng Y học cổ truyền về các bệnh đường tiêu hóa. Hai nhóm được so sánh về tỷ lệ giữ lại dạ dày ở phút thứ 30 và 60 và điểm số triệu chứng.
Kết quả: Sau liệu trình điều trị, tỷ lệ phần trăm giữ lại dịch vị ở phút thứ 30 và phút thứ 60 được cải thiện đáng kể ở cả hai nhóm so với giá trị trước điều trị (P < 0,01). Sự cải thiện về giữ lại dịch vị tốt hơn đáng kể ở nhóm huyệt Hợp Mộ so với nhóm huyệt đơn sau 30 phút (P < 0,01) và 60 phút (P < 0,05). Điểm số triệu chứng TCM giảm đáng kể sau liệu trình điều trị ở cả hai nhóm (P < 0,01). Sự cải thiện về điểm số triệu chứng TCM tốt hơn đáng kể ở nhóm huyệt Hợp - Mộ so với nhóm huyệt đơn (P < 0,01). Tỷ lệ hiệu quả tổng thể là 93,55% (29/31) ở nhóm huyệt Hợp Mộ và 77,42% (24/31) ở nhóm huyệt đơn. Hiệu quả điều trị tốt hơn ở nhóm huyệt Hợp Mộ so với nhóm huyệt đơn (P < 0,05).
Kết luận: Điện châm ở cả Túc tam lý (ST36) và Trung quản (CV12) hoặc chỉ ở Trung quản (CV12) đều có hiệu quả trong điều trị chứng trào ngược dạ dày nhanh. Hơn nữa, điện châm ở cả Túc tam lý (ST36) và Trung quản (CV12) có hiệu quả hơn so với điện châm ở Trung quản (CV12) riêng lẻ.
Nghiên cứu tác dụng giảm đau của điện châm ở Thiên khu (ST25) và Trung quản (CV12) trong mô hình chuột bị đau nội tạng do hội chứng ruột kích thích sau viêm.
Bối cảnh: Điều trị bằng điện châm (EA) ở Thiên khu (ST25) và Trung quản (CV12) có tác dụng giảm đau đáng kể đối với hội chứng ruột kích thích sau viêm (PI-IBS) ở vùng đau nội tạng. Các tế bào Enterochromaffin (EC) và serotonin (5-hydroxytryptamine (5-HT)) đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển chứng tăng đau nội tạng.
Mục tiêu: Nghiên cứu tác dụng giảm đau và cơ chế cơ bản của EA tại huyệt Thiên khu (ST25) và Trung quản (CV12) trong điều trị chứng tăng đau tạng PI-IBS do axit trinitrobenzene sulfonic (TNBS) gây ra ở chuột.
Phương pháp: Sau EA tại Thiên khu ST25 và Trung quản CV12, những thay đổi trong phản xạ rút bụng (AWR), ghi điện cơ đồ (EMG), số lượng tế bào EC đại tràng và biểu hiện của tryptophan hydroxylase (TPH), 5-HT và axit 5-hydroxyindoleacetic (5-HIAA) của chứng tăng đau tạng PI-IBS do TNBS gây ra ở chuột đã được kiểm tra.
Kết quả: Kết quả xét nghiệm AWR và ghi EMG cho thấy tác dụng giảm đau đáng kể của kích thích EA tại Thiên khu và Trung quản CV12 đối với chứng tăng đau tạng PI-IBS (p < 0,05). Ngoài ra, số lượng tế bào EC tăng lên và biểu hiện đại tràng của TPH và 5-HT ở chuột bị tăng đau tạng PI-IBS do TNBS đã giảm đáng kể bởi EA (p < 0,05).
Kết luận: Kích thích EA ở Thiên khu ST25 và Trung quản CV12 có thể làm giảm chứng tăng đau nội tạng. Tác dụng giảm đau này có thể được trung gian thông qua việc giảm cả số lượng tế bào EC đại tràng và nồng độ 5-HT.
Điều trị nấc cụt dai dẳng sau phẫu thuật thay khớp: tác dụng châm cứu tại Nội quan (PC6), Trung quản (CV12), Túc tam lý ST36
Mục tiêu: Có nhiều phương pháp điều trị nấc cụt, bao gồm các liệu pháp không dùng thuốc, nhưng ít bằng chứng cho thấy phương pháp này có ưu thế hơn phương pháp khác. Mục tiêu của nghiên cứu này là tìm hiểu tác dụng của châm cứu đối với tình trạng nấc cụt dai dẳng sau phẫu thuật thay khớp.
Phương pháp: Từ tháng 4 năm 2010 đến tháng 12 năm 2015, 15 bệnh nhân phẫu thuật thay khớp háng/đầu gối một bên ban đầu được chẩn đoán bị nấc cụt dai dẳng và được châm cứu tại Nội quan (PC6), Trung quản (CV12) và Túc tam lý (ST36). Mỗi buổi châm cứu kéo dài 30 phút. Tổng số buổi điều trị được xác định bằng sự dai dẳng của các triệu chứng, nhưng không được châm cứu quá ba lần trong một tuần. Công cụ đánh giá nấc cụt (HAI) được sử dụng để đánh giá mức độ nghiêm trọng của nấc cụt trước và sau khi điều trị. Các tác dụng phụ cũng được ghi lại.
Kết quả: Độ phân giải tuyệt đối được quan sát thấy ở tất cả 15 bệnh nhân sau chưa đầy ba buổi châm cứu. Trong số này, 10 bệnh nhân chỉ cần một buổi châm cứu, 3 bệnh nhân cần hai buổi và 2 bệnh nhân cần ba buổi. Điểm HAI được cải thiện sau mỗi đợt điều trị châm cứu (P <0,05). Điểm HAI trung bình được cải thiện đáng kể sau khi châm cứu so với giá trị ban đầu trước khi điều trị (P <0,05). Các triệu chứng đi kèm với nấc cụt bao gồm đau ở vùng cơ hoành (năm bệnh nhân), khó thở nhẹ (ba bệnh nhân), khó nuốt (hai bệnh nhân) và buồn nôn/nôn (một bệnh nhân). Tất cả các triệu chứng đi kèm này biến mất tại thời điểm nấc cụt được giải quyết. Không có tác dụng phụ nào liên quan đến châm cứu trong thời gian nghiên cứu.
Tác dụng hạ đường huyết phụ thuộc insulin gây ra bởi điện châm tại huyệt Trung quản ở chuột mắc bệnh tiểu đường
Châm cứu tại huyệt Trung quản đã được sử dụng rộng rãi trong y học cổ truyền để làm giảm các triệu chứng của bệnh tiểu đường. Nghiên cứu đã điều tra tác dụng của châm cứu điện tại huyệt Trung quản lên glucose huyết tương ở mô hình chuột mắc bệnh tiểu đường. Nồng độ insulin, glucagon và beta-endorphin trong huyết tương cũng được xác định bằng phương pháp xét nghiệm miễn dịch phóng xạ. Giảm glucose huyết tương được quan sát thấy ở chuột sau khi châm cứu điện (15 Hz, 10 mA) trong 30 phút tại huyệt Trung quản. Điều này được quan sát thấy ở chuột bình thường và mô hình chuột mắc bệnh tiểu đường loại II (không phụ thuộc insulin). Không có tác dụng đáng kể nào lên glucose huyết tương được quan sát thấy ở mô hình chuột mắc bệnh tiểu đường loại I (phụ thuộc insulin): cả chuột mắc bệnh tiểu đường do streptozotocin (STZ) gây ra cũng như chuột mắc bệnh di truyền (BB/W). Hơn nữa, tác dụng hạ đường huyết của kích thích điện châm đã biến mất ở những con chuột bị kháng insulin do tiêm insulin tác dụng kéo dài của người lặp lại hàng ngày để gây mất tình trạng hạ đường huyết do tolbutamide gây ra. Do đó, có thể đưa ra giả thuyết về tác dụng liên quan đến insulin. Giả thuyết này được hỗ trợ bởi sự gia tăng phản ứng miễn dịch giống insulin trong huyết tương sau khi kích thích điện châm ở những con chuột bình thường. Sự tham gia của glucagon đã bị loại trừ vì không có thay đổi nào trong phản ứng miễn dịch giống glucagon trong huyết tương do kích thích điện châm. Ngoài sự gia tăng phản ứng miễn dịch giống beta-endorphin trong huyết tương, tác dụng hạ đường huyết trong huyết tương của kích thích điện châm tại huyệt Trung quản đã bị naloxone loại bỏ với liều lượng đủ để chặn các thụ thể opioid. Do đó, chúng tôi cho rằng kích thích điện châm tại huyệt Trung quản gây ra sự tiết beta-endorphin nội sinh làm giảm nồng độ glucose trong huyết tương theo cách phụ thuộc vào insulin.
Từ đó, ta có thể thấy được tác dụng của huyệt Trung quản trong châm cứu là một phương án điều trị tiềm năng cho rất nhiều chứng bệnh đã được nghiên cứu và chứng minh.
BS. Nguyễn Văn Biên (Thọ Xuân Đường)