CỎ ĐẬU HAI LÁ – THẢO DƯỢC CHỐNG VIÊM NHIỄM CỰC MẠNH
Cỏ đậu hai lá là một loài thân thảo, sống lâu năm. Nhiều nơi, loài cỏ này được trồng thành từng thảm cỏ rộng để làm cảnh. Tuy nhiên, ít ai biết, loài cỏ nhỏ bé này lại là một loài thảo dược có tác dụng chống viêm dạ dày, viêm gan, viêm ruột,… rất hiệu quả. Hãy cùng tìm hiểu tác dụng của loài cây này nhé!
1. Mô tả
- Tên gọi: Cỏ đậu hai lá, đinh quý thảo, thương phòng
- Tên khoa học: Zornia gibbosa Span. Thuộc họ: Đậu (Fabaceae).
- Đặc điểm thực vật: Cây thảo, sống hằng năm hay sống dai, phân cành từ gốc, gốc phình thành củ thon nhỏ. Cành mảnh lúc đầu mọc ngả, sai đứng thẳng, dài 30 – 50 cm. Lá mọc đối có 2 lá chét hình trái xoan thuôn hay hình dài – mũi mác, gốc tròn, đầu có mũi nhọn ngắn; lá kèm hình mác nhọn có cựa ngắn. Cụm hoa mọc ở kẽ lá thành bông thưa; lá bắc giống lá kèm nhưng rộng hơn; hoa màu vàng, đài có hai môi không giống nhau; tràng có cành mang cựa, nhị 1 bó, không đều nhau. Quả đậu, thắt lại giữa các hạt, có lông hoặc nhẵn, đôi khi có vân mạng. Mùa hoa: tháng 4 – 6.
2. Bộ phận dùng
Toàn bộ phần thân, cành mang lá; rễ. Dùng tươi phơi khô.
3. Tác dụng dược lý
• Tác chung chống co thắt trên hải trùng chuột cống trăng có lập
Cỏ đậu hai lá là vị thuốc thường được dùng chữa một số chứng bệnh, trong đó có chữa rối loạn tiêu hoá, viêm ruột, kiết lỵ. Dạng thuốc dùng là cao khó chiết bằng hỗn hợp CHCl, và methanol (theo tỷ lệ 1 : 1) của toàn cây cỏ đậu lá. Phương pháp nghiên cứu là thử trên sự co bóp tự nhiên của hồi tràng chuột cống trắng cô lập dùng các nồng độ cao khác nhau để xác định đường cong nồng độ - đáp ứng và ICs tức là nồng ức chế sự co bóp hổi trảng 50. Kết quả cho thấy cao cỏ đậu hai lá có tác dụng ức chế sự co bóp tự nhiên của hồi tràng. Tác dụng ức chế này phụ thuộc vào nồng độ (concentration - dependent inhibition), (Rojas A et al., 1999).
• Tác dụng kháng khuẩn
Cũng để chứng minh cỏ đậu hai lá có tác dụng chữa rối loạn tiêu hoá, viêm ruột và kiết lỵ, đã dùng cao cỏ đậu hai lá chiết theo cách như trên và thử tác dụng trên vi khuẩn gây bệnh đường ruột phân lập từ bệnh nhân. Kết quả là cao có tác dụng kháng khuẩn khá. Kết luận: Cả hai tác dụng trên, là tác dụng chống co thắt trên hồi tràng cô lập và tác dụng kháng khuẩn trên vi khuẩn gây bệnh đường ruột (pathogenic enterobacteria) đã chứng minh được một phần về công dụng trong y học dân gian có đậu hai lá để điều trị rối loạn tiêu hoá, viêm ruột, kiết lỵ (Rojas A et al., 1999).
4. Tính vị, công năng
Cỏ đậu hai lá có vị ngọt nhạt, tính mát, có công năng thanh nhiệt, giải biểu, tán ứ, tiêu sưng. Sách "Sinh thảo dược tính bị yếu" ghi: cỏ đậu hai lá vị ngọt, tính ôn; sách "Bản thảo cầu nguyên ghi: vị ngọt, tính bình; sách "Quảng Đông Trung dược "ghi: vị nhạt, tính bình, hơi mát; sách "Toàn quốc Trung thảo dược hội biên "ghi : vị ngọt, nhạt, tính mát. Có đậu hai lá có công năng thanh nhiệt giải độc, lương huyết, khư ứ [TDTH, 1993, I : 57 - 8].
Rễ cây cỏ đậu hai lá có vị ngọt, tính mát; có công năng thanh nhiệt, giải độc.
5. Công dụng
Cỏ đậu hai lá được dùng chữa cảm mạo viêm họng viêm kết mạc; viêm dạ dày, ruột cấp, rối loạn tiêu hoá, kiết lỵ; viêm gan vàng da, viêm vú cấp; trẻ em cam tích và suy dinh dưỡng. Liều dùng mỗi ngày 15 - 30g (hoặc 30 - 60g tươi), sắc lấy nước uống.
Dùng ngoài, lấy cây tươi, rửa sạch, giã nát, đắp tên các chỗ đòn ngã tổn thương nhọt viêm da mủ, sưng tấy.
Rễ cây cỏ đậu hai lá đốt thành than, tán nhỏ, chiếu với nước, đắp lên chỗ ung nhọt, đinh độc, khi chưa vỡ mủ, có thể làm tiêu.
Ở Ấn Độ, toàn cây cỏ đậu hai lá được dùng chữa kiết lỵ, rễ để gây ngủ cho trẻ em [Chopra et al., 2001 : 262], [Srivastava, 1989 : 161, Nadkarni, 1999 1319] . Indonesia, cũng dùng rễ cỏ đậu hai lá để chữa mất ngủ cho trẻ em Medicinal herb index, 1995 : 386].
Ở Nam Trung Quốc, tro của rễ được dùng đắp để chữa ung nhọt, đinh độc và rắn cắn. Rễ sắc đặc, lấy dịch uống để giải độc [Perry et al., 1980 : 229].