MÃ BỘT LÀ VỊ THUỐC HAY CHỮA UNG THƯ
Mã bột là vị thuốc thường dùng trong y học cổ truyền dùng để trị các bệnh về cổ họng sưng đau, xuất huyết, vết thương lở loét. Không chỉ vậy, Mã bột còn hay xuất hiện trong các phương thuốc chữa ung thư.
Mã bột là quả thể các loại nấm như: Mã bột đa hình (Lycoperdon polymorphum Vitt. hoặc (Bovista polymorpha Vitt.) và Mã bột hình lê (Lycoperdon pyriforme Sehaeff. Ex Pers.) và Mã bột lưỡng vân (Lycoperdon perlatum Pers.) đều thuộc họ Mã bột (Lycoperdaceae). Trong đông y thường dùng Mã bột lưỡng vân hơn cả. Các loại nấm này còn được gọi là nấm cầu gai
Mã bột thường có ở những nơi đất ẩm bìa rừng, trên gỗ mục, hoặc bãi cỏ ẩm ướt (nhìn rất giống quả bóng golf, và hay bị các golf thủ nhầm lẫn khi nhìn từ xa). Ở nước ta, Mã bột phân bố ở các tỉnh miền Bắc.
1. Vị thuốc Mã bột trong y học cổ truyền
Mã bột có vị cay; tính bình, nhẹ và rỗng (tân, bình, khinh, hư). Có tác dụng: Thanh phế giải nhiệt, tán huyết chỉ khái. Thường được dùng trong các trường hợp phế nhiệt, yết hầu sưng đau (yết tý hầu thống), ho khạc (khái thấu), mất tiếng (thất âm), các chứng xuất huyết (nục huyết, thổ huyết, khái huyết…); dùng bên ngoài trị mụn nhọt, vết thương lở loét (sang thương).
Mã bột thường được bào chế dạng bột, dùng uống và rắc ngoài.
Liều dùng: 1,5 – 6g mỗi ngày, bọc vải màn, sắc uống (thường kết hợp với các vị thuốc đông y khác). Ngoài thuốc sắc, cũng có thể bào chế thành dạng thuốc tán, thuốc viên.
Để trị mụn nhọt, các vết thương bên ngoài, Mã bột liều lượng vừa phải, rắc trực tiếp hoặc hòa tan bôi lên tổn thương
.
Ngoài ra, Mã bột non còn được thu hái làm thực phẩm, ăn rất ngon và có mùi thơm, nhất là loại Mã bột đa hình và Mã bột hình lê.
2. Mã bột, thuốc hay trị ung thư
Mã bột (Lycoperdon perlatum) có tổng hàm lượng phenolic-flavonoid cao, do đó có khả năng chống oxy hóa mạnh.
Phân tích dinh dưỡng chỉ ra rằng Mã bột là nguồn cung cấp protein, carbohydrate, chất béo và một số vi chất dinh dưỡng tốt. Các axit béo chiếm ưu thế là axit linoleic (37%), axit oleic (24%), axit palmitic (14,5%), và axit stearic (6,4%).
Một số dẫn xuất steroid đã được phân lập và xác định từ quả thể Mã bột bao gồm (S)-23-hydroxylanostrol, ergosterol α-endoperoxide, ergosterol 9,11-dehydroendoperoxide và (23E)-lanosta-8,23-dien-3β, 25-diol. Các hợp chất 3-octanone, 1-octen-3-ol, và (Z)-3-octen-1-ol là các thành phần chủ yếu của các hóa chất dễ bay hơi tạo ra mùi thơm và mùi vị của nó.
Chất chiết quả thể Mã bột có chứa hoạt tính kháng khuẩn tương đối cao so với các vi khuẩn gây bệnh của vi khuẩn gây bệnh ở người như Bacillus subtilis, Staphylococcus aureus, Escherichia coli Salmonella enterica serovar Typhimurium, Streptococcus pyogenes, Mycobacterium smegmatis và Pseudomonas aeruginosa, với hoạt tính tương đương với kháng sinh Ampicillin kháng sinh… và có hoạt tính kháng nấm chống lại Candida albicans, C. tropicalis, Aspergillus fumigatus, Alternaria solani, Botrytis cinerea và Verticillium dahliae.
Trong y học cổ truyền, Mã bột thường dùng trong các phương thuốc chữa ung thư. Tương ứng y học hiện đại, Mã bột đã được nghiên cứu tác dụng ức chế tế bào ung thư S-180 (ung thư liên kết) lên đến 100%, gây độc tế bào ung thư vú người MCF-7, ức chế tăng trưởng dòng tế bào ung thư phổi người A549… Điều này cho thấy tiềm năng to lớn của Mã bột trong việc chữa ung thư.
Ngoài việc sử dụng trong các phương thuốc ra, Mã bột khi còn non còn được dùng trong ẩm thực, đây là loại nấm ngon, chế biến được nhiều món ăn. Nấm Mã bột có thể trở thành nguyên liệu cho món ăn bài thuốc giúp phòng và điều trị ung thư.
Bác sĩ: Nguyễn Thùy Ngân