Trầm cảm và lo lắng khi mang thai là một vấn đề sức khỏe cộng đồng lớn vì tỷ lệ lưu hành cao. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) ước tính rối loạn trầm cảm sẽ là nguyên nhân đứng thứ hai gây ra gánh nặng bệnh tật toàn cầu vào năm 2020. Tỷ lệ mắc bệnh trầm cảm ở phụ nữ trong độ tuổi sinh sản được báo cáo là cao gấp đôi so với nam giới. Một số phụ nữ có thể trải qua giai đoạn trầm cảm đầu tiên khi mang thai, trong khi những người khác có tiền sử trầm cảm có nguy cơ tái phát, tiếp tục hoặc trầm trọng hơn. Gần đây, lo lắng trước khi sinh đã nhận được sự chú ý ngày càng tăng liên quan đến cả tác động của nó đối với kết quả ở trẻ sơ sinh và là yếu tố nguy cơ dẫn đến trầm cảm sau sinh. Một số nghiên cứu đoàn hệ đã báo cáo rằng bệnh tâm thần trước khi sinh là yếu tố nguy cơ mạnh nhất gây ra trầm cảm sau sinh. Thứ hai, bằng chứng mới cho thấy trầm cảm khi mang thai cũng liên quan đến các kết cục bất lợi ở trẻ em bao gồm sinh non, nhẹ cân và trẻ sơ sinh kém phát triển.
Theo số liệu thống kê các nghiên cứu từ các nước phát triển đã báo cáo rằng trầm cảm là rối loạn tâm thần phổ biến nhất trong thai kỳ với tỷ lệ từ 10 đến 20%. Tỷ lệ trầm cảm đặc biệt là trong tháng thứ hai và thứ ba của thai kỳ đã được báo cáo đáng kể. Trong đó tỷ lệ trầm cảm là 26% và lo lắng là 10% khi mang thai ở những bệnh nhân có thu nhập thấp, đa dạng về chủng tộc đến từ Minnesota. Tỷ lệ các triệu chứng lo âu trước sinh (29%) và các triệu chứng trầm cảm trước sinh (18%) đã được báo cáo từ một nghiên cứu dựa trên dân số ở vùng nông thôn Bangladesh . Tỷ lệ mắc các triệu chứng trầm cảm trước sinh cao hơn (33%) được tìm thấy ở một tiểu khu nông thôn ở phía tây nam Bangladesh. Trong số phụ nữ Nam Ấn Độ, tỷ lệ trầm cảm trong ba tháng cuối là khoảng 16%. Một nghiên cứu được thực hiện ở vùng nông thôn Pakistan đã báo cáo rằng 25% phụ nữ bị trầm cảm khi mang thai.
Một nghiên cứu khác từ cộng đồng thành thị ở Pakistan cho thấy 18% phụ nữ mang thai lo lắng và/hoặc trầm cảm. Hầu hết các nghiên cứu trước đây về sức khỏe tâm thần khi mang thai ở Pakistan đều dựa trên bệnh viện. Một nghiên cứu từ phòng khám thai của một bệnh viện giảng dạy ở Lahore, Pakistan, cho thấy 34,5% phụ nữ mang thai bị lo lắng và 25% bị trầm cảm. Các kết quả gần như tương tự cũng được tìm thấy ở một bệnh viện cấp 3 ở Karachi, Pakistan.
Yếu tố nguy cơ
Một số nghiên cứu đã tiết lộ rằng tuổi mẹ trẻ, trình độ học vấn của phụ nữ thấp hơn, thu nhập của cặp vợ chồng thấp hơn, các biến cố căng thẳng trong cuộc sống và thất nghiệp có liên quan đến các triệu chứng trầm cảm trước khi sinh.
Một đánh giá có hệ thống đã nhấn mạnh rằng căng thẳng trong cuộc sống, thiếu hỗ trợ xã hội và bạo lực gia đình có liên quan đáng kể đến việc tăng nguy cơ trầm cảm khi mang thai. Độ tuổi ngày càng tăng, trình độ học vấn thấp hơn, các vấn đề liên quan đến bạo hành của chồng, ngoại tình, không dành thời gian cho gia đình và hạn chế phụ nữ cũng như sự can thiệp của nhà chồng và công việc nhà nặng nhọc có liên quan đáng kể đến trầm cảm khi mang thai. Các yếu tố dự báo trầm cảm và lo lắng trước khi là tình trạng thất nghiệp của chồng, kinh tế hộ gia đình thấp, có trình độ học vấn chính quy từ 10 năm trở lên, mang thai ngoài ý muốn và có bạn tình.
Tuổi tăng cũng được báo cáo là một yếu tố liên quan đến lo lắng và trầm cảm ở phụ nữ mang thai cũng như ở nhóm tuổi sinh sản. Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng các kết quả bất lợi khi mang thai như tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh và sinh non cao hơn có liên quan đến trầm cảm khi mang thai.
Đối với những cặp vợ chồng chưa có con hay muốn có thêm con cái, việc phải thứ liên tục như thế sẽ làm cho họ hết sức mỏi mệt cả về thế xác và tâm trí. Và cái vòng luẩn quẩn là: Càng mệt tâm trí như thế thì càng... ít hy vọng thụ thai.
Những phụ nữ nào đang được điều trị để có thế thụ thai, mà bỏ điều trị giữa chừng thì cũng khó lòng có thể thụ thai theo ý muốn. Lý do thường thấy là: Họ mất kiên nhẫn quá nhanh.
Các mối quan hệ xã hội bao gồm sự tham gia vào việc ra quyết định của hộ gia đình cũng được coi là yếu tố quan trọng trong các nghiên cứu trước đây. Thiếu hỗ trợ xã hội được coi là một yếu tố rủi ro trong nhiều nghiên cứu khác. Tầm quan trọng của mối quan hệ xã hội với chồng và vợ chồng cũng được thấy ở các nền văn hóa khác.
Mặc dù phụ nữ phải chịu gánh nặng về tâm lý, nhưng nhiều khi lỗi chưa phải hoàn toàn từ phía họ. Qua điều tra cho thấy, đàn ông bị trầm cảm cũng không có khả năng phóng tinh ra mạnh, và như vậy, số lượng tinh trùng cũng ít và chúng không khỏe, đế có thể di chuyển nhanh được. Như vậy, lỗi là từ cá hai phía.
Thuốc trầm cảm và thai nhi
Việc phát hiện sớm trầm cảm khi mang thai là rất quan trọng vì trầm cảm có thể ảnh hưởng xấu đến kết quả sinh nở và sức khỏe trẻ sơ sinh, và nếu không được điều trị, có thể tồn tại sau khi sinh. Trầm cảm sau sinh không được điều trị có thể làm giảm quan hệ giữa mẹ và con.
Các nhà khoa học đã chứng minh rằng, khi mang thai và sinh con, bệnh trầm cảm chắc chắn sẽ tái phát, mặc dù trước đó bệnh nhân đã được điều trị ổn định hoàn toàn. Trầm cảm khởi phát và tái phát sau đó, sẽ khiến người mẹ gặp vô vàn khó khăn khi chăm sóc em bé. Bạn cũng cần biết rằng, trầm cảm là một bệnh di truyền điển hình, ở phụ nữ, tỷ lệ trầm cảm điển hình là 9%, nhưng nếu người đó có mẹ hoặc bố bị trầm cảm, thì tỷ lệ trầm cảm lên đến 24%. Tuy nhiên, không có gì phải hoảng sợ quá, bệnh trầm cảm nếu được phát hiện sớm và điều trị kịp thời thì thường khỏi hoàn toàn, không để lại di chứng. Ngày nay, đã có nhiều loại thuốc chống trầm cảm rất an toàn cho thai nhi bằng y học tự nhiên. Nếu có thì cần có kế hoạch điều trị kịp thời trước khi có thai. Ngoài ra, người bị trầm cảm cần được điều trị ổn định hoàn toàn trong thời gian ít nhất 1 năm trước khi có thai, để có được sức khỏe sinh sản tốt nhất.
Hiện nay, song song với phương pháp dùng thuốc, đã có những phương pháp gọi là phản ứng giảm bớt căng thẳng như tập Yoga, tập các môn thể dục khác cũng như tham gia các hoạt động xã hội... thì khả năng có thế thụ thai lại tăng lên. Bên cạnh đó, việc được quan tâm, chăm sóc từ gia đình và xã hội là rất quan trọng.
Hãy để yêu thương đồng hành cùng thai kỳ của người phụ nữ!
BS. Phạm Thị Hồng Vân (Thọ Xuân Đường)