BÁN CHI LIÊN - VỊ THUỐC QUÝ CHO BỆNH NHÂN UNG THƯ
Bán chi liên là vị thuốc y học cổ truyền dùng để chống viêm, trị các bệnh về gan, chống ung bướu. Bán chi liên hay đi cùng với Bạch hoa xà thiệt thảo trong các đơn thuốc thảo dược chữa ung thư, loại dược này cũng được nhiều nghiên cứu khoa học chứng minh tác dụng này.
1. Đặc điểm thực vật
Bán chi liên còn gọi là Hoàng cầm râu, Thẩm râu, có tên khoa học: Scutellaria barbata D. Don hoặc Scutellaria rivularis Wall; họ: Bạc hà (Lamiaceae).
Bán chi liên phân bố chủ yếu ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới châu Á, gồm Nhật Bản, Triều Tiên, Trung Quốc, Nepal, Ấn Độ, Mianma, Thái Lan, Lào và Việt Nam.
Phân bố: Ở Việt Nam, cây thường gặp ở các tỉnh Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Sơn La, Điện Biên, Lạng Sơn, Bắc Giang, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Hòa Bình, Hải Dương (vùng Chí Linh), Ninh Bình, Thanh Hóa, Quảng Trị...
Bán chi liên là cây thân thảo, mọc bò, cao 15 – 20cm. Thân hình trụ nhỏ, mọc đứng, nhẵn hoặc có lông nhỏ. Lá hình trứng, mọc đối, dài 1 – 3cm, rộng 0,7 – 0,8cm, gốc hình nêm hoặc hình tim, đầu nhọn, mép khía răng, mặt dưới màu nhạt; những lá gần ngọn không cuống, những lá dưới cuống mảnh. Cụm hoa mọc ở kẽ lá màu tím lam, lá bắc dạng lá; hình chuông, dài 1,5 – 2mm, nhẵn hoặc hơi có lông, có đường sống rõ; tràng màu xanh lơ, dài khoảng 1cm, hơi loe ở đầu, chia môi; nhị 4, dính vào 1/3 dưới của tràng, không thò ra ngoài, chỉ nhị có lông ở gốc; bầu nhẵn. Quả nhẵn hoặc có lông, hình trứng cứng. Mùa hoa khoảng tháng 11.
Cây non mọc từ hạt khoảng tháng 4 – 5, sinh trưởng và phát triển nhanh vào mùa hè, sau mùa quả cây có thể tàn lụi vào mùa thu. Hạt bán chi liên nhỏ, phát tán gần nên trong tự nhiên cây thường mọc quần tụ thành đám nhỏ.
2. Thành phần hóa học và tác dụng
Hiện nay đã phân lập được 131 hợp chất từ các loài Bán liên chi, bao gồm các flavonoid, alkaloid, diterpen, triterpenoid, polysaccharid, tinh dầu và một số hợp chất khác. Hàm lượng các thành phần hóa học được chiết xuất từ bán chi liên có sự thay đổi đáng kể phụ thuộc vào điều kiện trồng trọt (khí hậu và thổ nhưỡng), thời vụ thu hoạch. Do vậy, các tác dụng dược lý cũng có thể có sự thay đổi.
Bán chi liên có chứa 49 hợp chất flavonoid và các dẫn xuất, bao gồm các flavone, flavonoid glycoside, flavanonevà chalcone. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra các tác dụng dược lý của các hợp chất này. Trong đó 4-hydroxy wogonin, apigenin, scutellarin, luteolin, baicalein và apigenin 5- O-β-glucopyranoside được chứng minh là có tác dụng chống ung thư. Trong đó, đáng lưu ý nhất là tác dụng trên bệnh ung thư của hợp chất scutellarin thuộc nhóm flavone, một loại hợp chất hóa học phenolic.
Việc xác định cấu trúc của scutellarin do Guido Goldschmiedt thực hiện trong nhiều năm từ 1901 đến 1910. Scutellarin đã được chứng minh là gây ra chết tế bào theo chương trình trên tế bào khối u buồng trứng và vú in vitro. Giá trị LD50 của scutellarin là 1314 mg/kg (tiêm tĩnh mạch trên chuột)
Trên chuột có khối u S180, Scutellarein làm giảm đáng kể ALT/AST huyết thanh, các hoạt động ALP và ức chế đáng kể sự phát triển của khối u trong cơ thể. Đây là tiềm năng trong việc điều trị bệnh ung thư gan trên lâm sàng.
Gần đây nhất, nghiên cứu của Ke Y. và Bao TH. cho thấy, điều trị bằng scutellarin (50mg/kg/ngày) trong 35 ngày làm giảm đáng kể sự di căn của khối ung thư phổi và HCC trong cơ thể người. Scutellarin làm giảm đáng kể khả năng sống sót của tế bào HepG2 phụ thuộc liều, và ức chế di chuyển, xâm lấn các tế bào HCC in vitro; ức chế hoạt động đáng kể STAT3/Girdin/Akt tế bào HCC trong cơ thể. Ngoài ra, scutellarin còn có những tác dụng khác như kháng khuẩn, chống viêm, bảo vệ cơ tim, cải thiện chức năng thần kinh.
Bán chi liên có thành phần diterpenoid dồi dào với hơn 50 loại neo-clerodane diterpenoid đã được phân lập. Một số hợp chất diterpene này đã thể hiện rõ tác dụng gây độc tế bào chống lại một số dòng tế bào ung thư của người trên in vitro.
Bằng phương pháp quang phổ, nghiên cứu của Dai S.J. và cộng sự (2006) đã tìm ra cấu trúc của các hợp chất neo-Clerodane diterpenoids tên là barbatins A–C và neo-clerodane diterpenoid nicotinyl ester tên là scutebarbatine B được phân lập từ toàn bộ cây Bán chi liên. Các hợp chất trên gây độc đáng kể đối với ba dòng ung thư ở người in vitro, cụ thể là ung thư mũi họng HONE-1, ung thư biểu mô vòm miệng KB và tế bào ung thư đại trực tràng HT29, có giá trị IC50 trong khoảng 3,5-8,1 μM.
Yuan Q.Q. và cộng sự (2017) nghiên cứu thành phần hóa học bằng phương pháp phân tích quang phổ trong dịch chiết acetone 70% của toàn cây Bán chi liên phát hiện 6 neo-clerodane diterpenoids mới: scubatine A, B, C, D, E, F. Hoạt tính độc tính đối với dòng tế bào ung thư bạch cầu HL-60 và tế bào ung thư phổi A549 được đánh giá cho tất cả các hợp chất cô lập. Hợp chất 6 cho thấy hoạt tính gây độc tế bào đối với A549 và HL-60 với giá trị IC50 lần lượt là 10,4 và 15,3 μM .
Polysaccharide của Bán chi liên được có tính chống oxy hoá in vitro. Polysaccharides Bán chi liên còn có tác dụng chống ung thư với cơ chế tăng cường chức năng miễn dịch.
Hỗn hợp polysaccharide hòa tan trong nước được phân lập từ cây Bán chi liên là SPS2p. Thành phần monosaccharide của SPS2p gồm có arabinose, mannose, glucose và galactose ở tỷ lệ 1,31: 1,00: 3,59: 1,59. Kết quả thực nghiệm cho thấy SPS2p có thể ức chế sự tăng sinh tế bào và thúc đẩy sự chết theo chương trình trên tế bào ung thư đại tràng HT29.
Các nghiên cứu ngoài nước về Bán chi liên ngoài việc chứng minh tác dụng chống ung thư còn có tác dụng kháng khuẩn, kháng virus.
• Theo Y học cổ truyền (đông y)
Bán chi liên có vị hơi đắng, tính mát. Tác dụng thanh nhiệt, giải độc, lợi tiểu, tiêu sưng, giảm đau.
Bán chi liên thường được dùng trong dân gian để hạ sốt, lợi tiểu; trị khối u, áp xe phổi, lao phổi xơ, viêm gan, viêm ruột thừa, xơ gan cổ trướng. Dùng ngoài, lấy lượng cây tươi vừa đủ, rửa thật sạch, giã nát đắp và nấu nước rửa, trị rắn độc cắn, sâu bọ cắn đốt, các loại mụn nhọt sưng đau, viêm vú, viêm mủ da, sâu, đòn ngã tổn thương. Liều thường dùng của bán chi liên từ 20 – 40g/ngày.
Bác sĩ: Nguyễn Thùy Ngân (Thọ Xuân Đường)